CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC VÀ MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
Phạm Thế Duyệt
Chủ tịch UB TWMTTQ Việt Nam
Vào những ngày này, đồng bào, đồng chí cả nước và
đồng bào ta ở nước ngoài, bằng những việc làm cụ thể để thiết thực kỷ niệm 115
năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người Anh hùng giải phóng dân tộc,
danh nhân văn hóa thế giới, Người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộng sản
Việt Nam; Người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tức Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; Người sáng lập, lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất, Người
chiến sĩ cộng sản quốc tế mẫu mực và Người bạn thân thiết của các dân tộc đang
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế
giới.
Năm nay, nhân dân ta tổ chức
trọng thể lễ kỷ niệm lần thứ 115 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Mình để bày
tỏ lòng biết ơn vô hạn với Người.
Kỷ niệm Ngày sinh của Người chính là dịp để chúng ta tiếp tục khẳng định ý chí
sắt đá của toàn dân tộc đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, tiếp tục giương cao
ngọn cờ Hồ Chí Minh, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, học tập tư
tưởng, đạo đức, tác phong, lề lối làm việc của Người, vững bước đi theo con
đường mà Người đã chỉ ra, ra sức phấn đấu để hoàn thành sự nghiệp lớn lao mà
Người đã truyền lại, biến “ham muốn tột bậc" và hoài bão lớn lao của Người
thành hiện thực.
Một trong những tài sản vô giá
mà Người để lại cho dân tộc ta, cho thế hệ chúng ta và các thế hệ mai sau là tư
tưởng Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống những quan điểm toàn diện, nhất quán và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là từ cách mạng dân tộc,
dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển chế
độ tư bản chủ nghĩa; là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là
cuộc cách mạng thuộc địa từ giải phóng dân tộc đến giải phóng xã hội, giải
phóng con người...
Trong hệ thống những quan điểm
đó nổi lên tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc
thống nhất. Tư tưởng thấm đượm truyền thống văn hóa dân tộc và nhân văn sâu sắc
đó đã trở thành một trong những nhân tố quan trọng nhất, bảo đảm thắng lợi của
Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ 20 và sẽ trường tồn với thời gian.
Nghiên cứu lịch sử hàng nghìn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến một nhận
định: ''Sử ta dạy cho ta bài học này. Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như
một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị
nước ngoài xâm lấn".
Từ thực tiễn đấu tranh cách
mạng, kết hợp nhuần nhuyễn luận điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng''
của chủ nghiã Mác - Lê-nin với tư tưởng “dân là gốc'' của ông cha, Người đã đưa
ra một chân lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại
thành công”.
Trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình, vì đại nghĩa dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh - biểu tượng cao
đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, linh hồn của tinh thần đại đoàn kết
dân tộc, đã luôn luôn phấn đấu cho chân lý đó.
Nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy: Trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn cách mạng, có thể là cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương
pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, song tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn là tư tưởng cơ bản, nhất quán,
là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường
lối cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Người.
Trong lễ ra mắt của Đảng Lao
động Việt Nam ngày 3-3-1951, thay mặt Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng
tuyên bố trước quốc dân đồng bào: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể
gồm tám chữ là: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”
Theo quan điểm của Người, đại
đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết “mọi người mang trong mình dòng máu con Lạc,
cháu Hồng”, là đoàn kết “mọi con dân đất Việt”, đoàn kết “mỗi một người con
Rồng, cháu Tiên”. Đây không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà
cũng là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc, vì nó là đòi hỏi khách quan
của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình. Đảng có sứ
mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển hóa những đòi hỏi khách quan, tự
phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức,
thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân.
Và chính Người đã phấn đấu không
mệt mỏi cho sự nghiệp đó. Nghiên cứu những bài viết, bài nói của Người, ta thấy
hầu như không bài nào vắng bóng những từ đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Trên
cương vị và uy tín của mình, Người đã dành khá nhiều thời gian viết thư gửi
nam, phụ, lão, ấu, đồng bào các dân tộc, công nhân, nông dân, bộ đội, nhân sĩ,
trí thức, giới công thương, Việt kiều, đồng bào các tôn giáo, v.v. nhằm duy trì
và mở rộng khối đại đoàn kết.
Đối
với đồng bào các dân tộc, Người kêu gọi: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Gia Rai hay E-đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con
cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ
cùng nhau, no đói giúp nhau.
Trước
kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu giây liên lạc, hai là vì có kẻ xúi
giục để chia rẽ chúng ta.
Ngày nay, nước Việt Nam
là nước chung của chúng ta.
Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên
tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng
hộ Chính phủ ta” (Trích thư gửi Đại hội
các dân tộc thiểu số miền nam tại PLây Cu ngày 19-4-1946)
Và chính vì thế mà trên thế giới này hiếm có quốc gia nào đồng bào các dân tộc
lại coi lãnh tụ của mình là ''Cha già dân tộc" lúc còn sống cũng như khi
đã qua đời như dân tộc Việt Nam đối với Bác Hồ. Muốn đoàn kết rộng rãi phải
biết khoan dung độ lượng. Khoan dung, độ lượng là phẩm chất cao đẹp của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, là điều kiện quan trọng đề tập hợp hết thảy mọi lực lượng mà
Người đã rêu ra.
Điều đó được nêu trong bức thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 31-5-1946:
''Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!
Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón
vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu
người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi
của tổ tiên ta. Vì vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là
con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng
bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới
thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang...
Trong thư gửi các linh mục và
đồng bào công giáo Việt Nam ngày 25-12- 1945, Hồ Chủ tịch viết: ''Trong lịch sử
Việt Nam ta, lần này là lần đầu mà đồng bào công giáo ta làm lễ Nô- en một cách
vui vẻ sung sướng trong nước Việt Nam độc lập, tự do. Người tin rằng: “Đồng bào
công giáo quyết một lòng với nhân dân toàn quốc để giữ vững nền tự do độc lập
đó”.
Gửi thư cho Hội Phật tử Việt Nam
ngày 30-8-1947, Người cảm ơn sự đóng góp của đồng bào phật tử trong cuộc kháng
chiến cứu nước và mong đồng bào đoàn kết, cố gắng thêm, cố gắng mãi cho đến
ngày trường kỳ kháng chiến thắng lợi, thống nhất và độc lập thành công.
Gặp gỡ Việt kiều ở Pháp năm
1946, Bác căn dặn mọi người đoàn kết, giúp nhau tiến bộ, cố gắng học một nghề
gì có ích để phục vụ dân tộc.
Một sáng tạo lớn, một cống hiến quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam cho dân tộc, cho giai cấp, cho phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, là việc thành lập Mặt trận Dân tộc
thống nhất. Trong tư duy cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Dân tộc
thống nhất là cái cốt vật chất, là điều kiện tiên quyết giúp cho việc chuyển
hóa đại đoàn kết dân tộc từ sức mạnh tinh thần tiềm ẩn thành sức mạnh vật chất
hiện thực, thành lực lượng có tổ chức.
75 năm trước đây, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, ngày
18-11-1930 Hội Phản đế đồng minh, hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận Dân
tộc thống nhất ở nước ta ra đời theo tư tưởng Hồ Chí Minh, do Đảng Cộng sản
Đông Dương khởi xướng và lãnh đạo, đã đánh dấu sự phát triển về chất phong trào
yêu nước và cách mạng của nhân dân ta.
Kế tục sự nghiệp vẻ vang của Hội
Phản để đồng minh (1930-1936) và của Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939),
Mặt trận Việt Minh do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập (19-5-1941) đã tập
hợp các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và các tổ chức cứu quốc, đoàn
kết, động viên toàn dân nổi dậy giành chính quyền, đưa Cách mạng Tháng Tám đến
thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày nay là nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đoàn kết trong Mật trận Liên
Việt, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, đưa cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp đến thắng lợi, giải phóng một nửa đất nước.
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc,
trong Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng
dân tộc, dân chủ hòa bình Việt Nam, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhân dân ta đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước.
Cùng với quá trình phát triển
của cách mạng Việt Nam, Mặt trận Dân tộc thống nhất đã không ngừng củng cố, mở
rộng, với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, phù hợp với nhiệm vụ
cách mạng của mỗi thời kỳ. Mặt trận Dân tộc thống nhất đã có những cống hiến
xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc và trở thành một nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
"Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận
là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng... Trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt
trận Dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng
Việt Nam.
Xuất phát từ quan điểm nêu trên
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được cụ thể hóa bằng Nghị quyết Đại hội IX của Đảng,
Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trương: “Đoàn kết rộng rãi, đoàn kết
mọi thành viên trong xã hội, không phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai
cấp, dân tộc, tôn giáo, trong nước hay ở nước ngoài, đoàn kết chặt chẽ trên cơ
sở mục tiêu chung là giữ vững độc lập, thống nhất vì ''dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đoàn kết giữa nhân dân ta với nhân dân các
nước trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành động lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Đó là nhiệm vụ lịch sử nặng nề
nhưng rất vẻ vang của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
của mọi người Việt Nam
yêu nước, thương nòi”.
Mỗi lần kỷ niệm Ngày sinh của
chủ tịch Hồ Chí Minh là một dịp để nhân dân ta, trước hết là cán bộ, đảng viên
nghiên cứu, học tập để quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người. Đây là một việc
làm rất quan trọng. Song điều quan trọng hơn, cấp bách hơn đối với tất cả chúng
ta lúc này là vận dụng tư tưởng, đạo đức, tác phong và lề lối làm việc của
Người vào cuộc sống hiện nay.
Hãy phát huy cao sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì sự phồn
vinh của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI VẤN ĐỀ DÂN
TỘC
VÀ CON NGƯỜI
. TS. Phạm Hồng Chương-Viện Hồ Chí Minh
"Cái mà tôi cần nhất trên đời là
: “Đồng bào tôi được tự do,Tổ quốc tôi được độc lập".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói như vậy
và Người đã phấn đấu suốt cả cuộc đờí cho điều giản dị chân lý ấy ; độc lập cho
Dân tộc và tự do cho Con người Việt Nam. Đó là điểm xuất phát của quá
trình nhận thức, là tiêu chuẩn lựa chọn một học thuyết, một con đường tranh
đấu: là hạt nhân chi phối các hoạt động lý luận và thực tiễn, là mục tiêu phấn
đấu của Hồ Chí Minh đồng thời cũng là cội nguồn thắng lợi của cách mạng nước ta
dưới sự dẫn dắt của Người. Nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào các hoạt động thực tiễn phải chú trọng vấn đề hạt nhân đó: vấn đề dân tộc
và con người.
1 . Chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh ra
đi tìm đường cứu nước, cứu dân xuất phát từ lòng yêu nước - thương dân tha
thiết với khát vọng giải phóng dân tộc - con người Việt Nam, Nguồn lực tinh
thần là chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam ấy được hun đúc qua hàng nghìn
năm dựng nước - giữ nước, lao động - sáng tạo, bảo tồn - phát triển của dân tộc
ta.
Với hành trang đó, Hồ Chí Minh tiến
hành cuộc tìm tòi lịch sử và cuộc hành trình ra thế giới để xem xét họ làm thế
nào nhằm trở về "giúp đồng bào chúng ta", đã mở rộng nhận thức của
Người về vấn đề dân tộc và con người. Người đã thấy không chỉ dân tộc mình mất
tự do mà nhiều dân tộc khác cũng "cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự
bạo ngược của chế đô thực dân" và không chỉ đồng bào mình bị đối xử
như nô lệ mà nhân dân lao động các nước khác không kể chủng tộc, màu da hay
quốc tịch cũng "đều là nạn nhân của một kẻ sát nhân : chủ
nghĩa tư bản quốc tế3Người
nhận xét : "Vậy là dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai
giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột, mà cũng chỉ
có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu áí vô sản4.Từ
nhận thức chung đó, Hồ Chí Mmh coi vấn đề giải phóng dân tộc và con người không
chỉ là vấn đề của dân tộc mình mà phải là vấn đề toàn cầu "Mặc dầu
chúng ta là những người khác giống: khác nước, khác tôn gíáo... chúng ta đấu
tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc
lập cho Tổ quốc chúng ta" và trong cuộc chiến đấu đó "chúng ta
không đơn độc vì chúng ta có tất cả các dân tộc của chúng ta ủng hộ"5.Có
thể nói, hiểu biết của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và con người Việt Nam đã
mở rộng ra tầm thế giới và nhân loại nó đã bổ sung thêm tiêu chuẩn cho Hồ Chí
Minh trong sự lựa chon con đường cho cách mạng Việt Nam trước thời đại lịch sử
mới: con đường đó phải giải quyết vấn đề dân tộc và con người không chỉ cho
dân tộc và con người Việt Nam mà cho tất cả các dân tộc bị áp bức và nhân dân
lao động bị bóc lột trên toàn thế giới.
Trước khi bắt gặp chủ nghĩa Mác -
Lênin và đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, với hành trang chủ
nghĩa yêu nước - nhân văn truyền thống và với những nhận thức mới có tính nhân
loại về vấn đề dân tộc - con người. Hồ Chí Minh đã tìm hiểu nhiều học thuyết và
xem xét các hình mẫu cách mạng điển hình như cách mạng tư sản Pháp và Mỹ, nhưng
Người đều chối từ. Sự từ chối đó xuất phát từ nguyên nhân căn bản là những học
thuyết tư sản và mẫu hình cách mạng dân tộc và xã hội này đã không giải quyết
"đến nơi" vấn đề con người như tuyên ngôn cách mạng của nó: công nông
vẫn cực khổ và chỉ là sự thay đổi kẻ bóc lột mà thôi.
Từ hiện thực trái ngược với những
tuyên ngôn của hai cuộc cách mạng xã hội ở Pháp và giải phóng dân tộc ở Mỹ và
khi yêu sách của nhân dân Việt Nam mà Người gửi tới Hội nghị Vécxây năm 1918 bị
phớt lờ. Hồ Chí Minh đã thấy rõ những tuyên bố của giai cấp tư sản "chỉ
là trò bịp lớn". Từ thực tiễn đó. Người càng khẳng định ý tưởng phải
giải quyết vấn đề dân tộc và con người theo một học thuyết khoa học - cách mạng
khác các học thuyết tư sản và bằng một con đường cách mạng triệt để.
Hồ Chí Minh nhận xét Cách mạng Tháng
Mười Nga, từ sự thành công của nó, "mà cơ sở của quyền tự do chân chính
và quyền bình đẳng thực sự đã được đặt ra cho loài người". Do vậy,
theo Người. "Tiếng sấm Cách mạng Tháng Mười Nga đã vang dội làm chấn
động địa cầu: Nhân dân lao động đã làm chủ nước nhà, những dân tộc nhỏ
yếu đã giành được độc lập ruộng đất về tay dân cày. Tiếng sấm ấy đã thúc đẩy
những người Việt Nam
yêu nước hướng về phía Liên Xô: hấp thụ lý luân vĩ đại của chủ nghĩa
Lênin"8.
Từ thực tiễn giải quyết triệt để vấn
đề dân tộc và con người của cách mạng Nga, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng thâu nhận
học thuyết giải phóng dân tộc và con người của thời đại mới - Chủ nghĩa Mác -
Lênin - vì đó "là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất"9.
Theo Người "muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản" và tiến tới CNCS vì "chỉ
có CNCS mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm
cho mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”). Từ nhận thức đó,
Hồ Chí Minh đã trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản pháp,
tham gia Quốc tế III và trở thành người cộng sản tranh đấu không chỉ vì lợi ích
của dân tộc con người Việt Nam mà còn vì lợi quyền thực sự của các dân tộc và
nhân dân lao động toan thế giới.
Như thế, từ và vì vấn đề dân tộc -
con người của Việt Nam để đi ra thế giới, hòa nhập vào nhân loại và hướng theo
dòng tiến hóa của thời đại quan niệm của Hồ Chí Minh về giải phóng dân
tộc: giải phóng xã hội, giải phóng con người theo học thuyết cách mạng khoa
học, bằng con đường cách mạng vô sản hướng tới CNXH với đầy đủ các yếu tố Dân
tộc - Nhân loại - Thời đại. Sự thống nhất đó đã khẳng định ngay từ đầu những
nhân tố cơ bản cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Như vậy, con đường của cách
mạng hướng đến CNXH ở Việt Nam không phải là ý muốn chủ quan nào mà là đòi hỏi
nội tai của dân tộc, phù hợp với hướng tiến hóa của nhân loại trong thời đại
mới sau Cách mạng Tháng Mười, nó hội đủ các yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân
hòa. Điều đó giải thích tại sao trong khi các học thuyết khác không có cơ hội
bám rễ ở Việt Nam thì chủ nghĩa Mác - Lênin: con đường cách mạng vô sản được Hồ
Chí Minh truyền bá vào nước ta đã được tiếp nhận nhanh chóng, phát triển vững
chắc và cuộc cách mạng ở Việt Nam luôn được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của các dân
tộc và nhân dân lao động toàn thế giới. Điều đó cũng lý giải vai trò dẫn dắt
dân tộc của Hồ Chí Minh lại được chính những nhà ái quốc như Phan Chu Trinh,
Phan Bội Châu thừa nhận và gửi gắm kỳ vọng,
2 . Vấn đề Dân tộc - Con người trong
thang giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam cùng vời lý luận Mác - Lênin
không chỉ là cơ sở là tiêu chí quyết định con đường cách mạng
hướng tới mục tiêu XHCN vì Dân tộc - Con người của Hồ Chí Minh mà còn giúp
Người giải quyết một cách sáng tạo trong cách mạng nước ta, từ xây dựng lý luận
cách mạng đến chỉ đạo hoạt động thực tiễn: từ việc xây dựng đường lối, hoạch
định chính sách, tổ chức lực lượng, xác định phương pháp cách mạng đến bước đi
của cách mạng Việt Nam, trong cả sự nghiệp giải phóng dân tộc và phục hưng đất
nước, thích hợp với điều kiện trong nước và sự vận động của quan hệ quốc tế.
Sự sáng tạo được thể hiện ngay trong
việc Hồ Chí Minh xây dựng, hình thành sự kết hợp các nhân tố dẫn tới sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào yêu nước và phong trào của giai cấp công
nhân. Trong Chính cương Sách lược vàĐiều lệ vắn tắt của
Đảng, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu cuối cùng là xây dựng CNCS ở Việt Nam, đồng
thời Người cũng cụ thể hóa mục tiêu là làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, giải
phóng công nông khỏi áp bức của đế quốc và phong kiến, thiết lập nền dân chủ
mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, thực hiện giải
phóng dân tộc giải phóng xã hội và giải phóng con người và tạo ra những điều
kiện phát triển mới vì lợi ích dân tộc và con người Việt Nam. Không chỉ dừng ở
đường lối, vấn đề dân tộc - con người còn thấm sâu vào việc tổ chức lực lượng
và chỉ đạo các hoạt động thực tiễn. Quyết định của Hồ Chí Minh năm 1941 về sự
chuyển trọng tâm của cách mạng Việt Nam là đặt lợi ích giải phóng dân tộc lên
trên hết nhưng trong Chương trình Việt Minh vẫn có đầy đủ mục tiêu "Việt
Nam độc lập" và về con người là "làm cho dân Việt Nam được
sung sướng, tự do". Khơi dậy nguồn lực mạnh mẽ nhất tiềm ẩn trong dân
tộc - chủ nghĩa yêu nước nhân văn Việt Nam, và với lợi ích dân tộc, lợi ích của
các giai tầng, của mỗi con người được xác định thống nhất, Hồ Chí Minh đã đoàn
kết được toàn thể dân tộc làm Cách mạng Tháng Tám thành công, thiết lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tiêu chí phấn đấu là Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc. Cho đến nay tiêu chí đó vẫn là mục tiêu của nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và con người còn được khẳng định trước toàn thế giới qua Tuyên ngôn độc lập
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người khởi thảo. Thừa nhân những lời
bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập Mỹ (1776) và "những lẽ phải
không ai chối cãi được" trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của cách mạng Pháp (1789) về quyền con người, Hồ Chí Minh đã đi tới kết
luận phản ánh nguyện vọng chung của dân tộc Việt Nam, của các dân tộc, đồng
thời thể hiện rõ tư tưởng của mình khi Người viết rằng: "Tất cả các dân
tộc trên thế gíới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tư do”. Nâng quyền tự nhiên của con người lên quyền dân
tộc và gắn quyền con người với quyền dân tộc, với Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí
Minh đặt nền tảng cho một trật tự và pháp lý quốc tế mới về quyền con người,
quyền dân tộc và sự bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc. Cần phải nhấn mạnh sự
đóng góp này của Hồ Chí Minh, vì 15 năm sau khi Tuyên ngôn Độc lập được
công bố, tới cuối năm 1960, khi mà vấn đề độc lập không thể không được đặt ra
sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Liên Hợp Quốc mới có tuyên ngôn trao trả độc lập
cho các dân tộc và phải 10 năm sau đó nữa Liên Hợp Quốc mới có nghị quyết để
thi hành Tuyên ngôn năm 1960.
Mục tiêu của Nhà nước ta ghi trên
quốc hiệu đã được thực thi ngay trong những ngày tháng đầu tiên của chế độ mớí.
Chỉ 1 ngày sau khi tuyên bố độc lâp, ngày 3-9-1945, Hồ Chí Minh đã đề ra 6
nhiệm vụ cấp bách để giải quyết ngay các vấn đề quan hệ tới vận mệnh của dân
tộc và sự sinh tồn của mỗi người Việt Nam. Ngày 17-10-1945, trong thư gửi ủy
ban Nhân dân các cấp, sau khi nêu lên việc kiến thiết nước nhà là lâu dài nhưng
Người đã chỉ thị "ngay từ bước đầu chúng ta phải giữ đúng phương
châm"là "gắng sức /àm cho ai nấy đều có phần hạnh
phúc").Phát biểu tại phiên họp đầu tiên của ủy ban nghiên
cứu kế hoạch kiến quốc, ngày 10-1-1946, Người nói: "Chúng ta tranh được
tự độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do độc lập cũng không làm
gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no
mặc đủ).Vì vậy, Người khẳng định: "Chúng ta phải làm sao
thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có
chỗ ở, làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là ở đó, đi
đến để dân ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp vào tự do độc
lập".Từng bước thực hiện mục tiêu Tự do - Hạnh phúc của con người Việt
Nam.
Hồ Chí Minh đã làm gia tăng gấp bội sức mạnh dân tộc để vượt qua mọi thử thách,
đưa Tổ quốc ta bước vào điểm xuất phát của kỷ nguyên Độc lập Tự do- Hạnh
phúc.
Tinh thần dân tộc mạnh mẽ đó đã phát
huy thành những phong trào thi đua chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và
tạo nên nền tảng vững chắc nhất trong lòng dân tộc để Hồ Chí Minh và Đảng ta
thực thi thành công các sách lược nhằm bảo tồn chế độ vừa mới được dựng xây sau
Cách mạng Tháng Tám. Thành công đó còn được Hồ Chí Minh và Đảng ta phát huy
trong công cuộc Kháng chiến Kiến quốc, trong sự nghiệp chiến đấu vì chân
lý Không có gì quý hơn độc lập tự do và trong xây dựng xã hội XHCN. Như
thế, vấn đề Dân tộc - Con người không chỉ là mục tiêu, là tiêu chí trong
xây dựng lực lượng cách mạng, là cơ sở để vạch ra và thực thi các phương
pháp cách mạng đặng đưa dân tộc Việt Nam tới các mục tiêu giải phóng, là lý
do cho sự ra đời và tồn tại của Nhà nước của dân, do dân và trong tổ chức
xã hội mới mà còn là động lực chủ trong công cuộc giải phóng, phục hưng
dân tộc hướng tới xã hội XHCN vì dân tộc, vì con người.
3 . Chúng ta đặc biệt nhấn mạnh tới
vấn đề dân tộc - con người qua cách trình bày của Hồ Chí Minh về mục tiêu của
CNXH, một xã hội vì dân tộc, vì con người trong khái niệm cặp đôi của nó Người
nói: "CNXH là làm sao cho dân giàu, nước mạnh","là sung
sướng tự do", "làlàm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc
và học hành tiến bộ" CNXH là "xã hội ngày càng
tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt". Những mục
tiêu cụ thể trên đây đươc Hồ Chí Minh khái quát một cách súc tích và nhất quán
khi Người khẳng định XHCN không có bóc lột và áp bức dân tộc", là "một
xã hội đảm bảo cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng
thấy, đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn
vinh làm cho mọi người lao động có một tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường,
hướng tới những chân trời tươi sáng, mà trước kia không thể nghĩ tới).Những
mục tiêu trên đây thể hiện một cách tổng quát và chính xác tư tưởng Hồ Chí Minh
CNXH: độc lập dân tộc được bảo đảm bằng sự phát triển hùng cường của tổ quốc tự
do với một xã hội ngày càng tăng tiến về điều kiện vật chất, tốt đẹp hơn về
tinh thần, bảo đảm cho con người phát triển và có cuộc sống xứng đáng, vinh
quang. Đây cũng là nội dung đầy đủ nhất của mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc mà Hồ Chí Minh đề ra cho chế độ mới. Đó là điểm chung cho toàn dân tộc, là
tiêu điểm để đoàn kết toàn dân, thống nhất dân tộc, phấn đấu tiến tới hoàn
chỉnh những mục tiêu của CNXH vì lợi ích lâu dài của mọi người Việt Nam.
Những mục tiêu của CNXH đã khắc thành tiêu chí trên đây chỉ có được đầy đủ khi
đã đạt tới sự phát triển hoàn chỉnh của xã hội XHCN. Nhưng với mẫu số chung về lợi
ích đó - ngay từ khi mới bắt đầu xây dựng chế độ này - nó đã được thể hiện và
phát huy tác dụng để mọi người dân nhận thấy bản chất của xã hội mới, được
hưởng thụ thành quả về vật chất và tinh thần của sự giải phóng dân tộc giải
phóng xã hội, giải phóng con người trong từng bước đi lên của xã hội XHCN. Do
vậy, thông qua những lợi ích chung và thiết thực đó, niềm tin của toàn dân lo
lý tưởng XHCN được củng cố đồng thời tạo ra một hiệu ứng tích cực, phát huy
lòng tự tôn dân tộc, làm gia tăng tối đa sức mạnh dân tộc vượt qua mọi khó khăn
khi phải đối diện trước bất kỳ một thử thách cam go nào trong sự nghiệp phục
hưng dân tộc theo CNXH. Với mục tiêu lý tưởng nhưng rất hiện thực đó. Hồ Chí
Minh đã khơi dậy những tiềm năng bị chôn vùi phát huy sức mạnh sẵn có, làm nảy
nở những cái mới, cái hay, cái đẹp của cả dân tộc, của mỗi con người trong sự
nghiệp xây dựng đất nước theo CNXH. Do đó có thể khẳng đinh rằng tư tưởng Hồ
Chí Minh về muc tiêu vì dân tộc - con người của xã hội XHCN ở Việt Nam là sự sáng
tạo và thể hiện đúng bản chất đích thực của CNXH mà chủ nghĩạ Mác - Lênin đã đề
cập tới. Từ mục tiêu chung và dài lâu là Độc lâp - Tự do - Hạnh Phúc, ở từng
giai đoạn nhất định của cách mạng, các mục tiêu chiến lược lại được diễn đạt cụ
thể sát hợp với tình hình, nhiệm vụ nhưng không tách rời tiêu chí vì độc lập
dân tộc, tự do hạnh phúc cho con người của xã hội XHCN. Xây dựng một nước Víệt
Nam hòa bình, thống nhất, đôc lập, dân chủ và gíàu mạnh trong khẩu hiệu
chiến lược của Đảng từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ và được ghi lại trong Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh như là "điều mong muốn cuối
cùng" của Người chính là mục tiêu của CNXH ở nưởc ta.
Để tiến tới xã hội XHCN có đầy đủ các
điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm thực hiện được hoàn chỉnh
tiêu chí của xã hội XHCN cần có thời gian và phải trải qua thời kỳ quá độ. Tuy
nhiên, ở những thời kỳ đầu, mục tiêu của CNXH đã dần dần được thể hiện khi từng
bước hình thành một chế độ chính trị dân chủ, một nền kinh tế hiên đại dựa trên
cơ sở "gắn liền với sự phát triến khoa hoc và kỹ thuật với sự
phát triển văn hóa của nhân dân" và có sự "công bằng hợp lý”)
về mặt xã hội. Hồ Chí Minh đã nói : "chúng ta tiến lên xây dựng một
nước XHCN tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập
tức là nước Việt Nam
hòa bình thống nhất, độc lập dân chủ vả giàu mạnh" . Đó là sự định
hướng XHCN trong tất cả các lĩnh vực và tất cả đều phải xuất phát, phải dựa
trên những đặc điểm, giá trị văn hóa Viêt Nam, không bao giờ xa rời mục tiêu
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Mục tiêu đó không chỉ là tiêu chí của tương lai,
nó phải được thể hiện từng bước trong thực tiễn để xây đắp nền tảng vật chất và
tinh thần cho sự tồn tại của chể độ XHCN nên đồng thời còn là động lực chính
thúc đẩy cuộc cách mạng sáng tạo ở nước ta. Như vậy, mục tiêu của CNXH ở Việt Nam
không chỉ thấm đậm yếu tố Dân tộc - Con người mà còn hiện rõ các nhân tố cấu
thành Dân tộc - Nhân loại - Thời đại.
4.Từ thang giá trị truyền thống của
chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam về vấn đề dân tộc và con người mà Hồ Chí
Minh tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn con đường cho cách mạng nước ta.
Trên cơ sở đó, Người đã giải quyết một cách sáng tạo vấn đề dân tộc và con
người trên cả phương diện lý luận và hoạt động thực tiễn phù hợp với điều kiện
Việt Nam và sự tiến hóa của nhân loại, đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại.
Do đó, Người đã khơi dậy nguồn động lực mạnh mẽ nhất của dân tộc, huy động được
tối đa sức mạnh toàn dân và đã giành đươc sự ủng hộ vô cùng to lớn của nhân dân
thế giới. Sức mạnh của dân tộc nhờ đó kết hợp được với sức mạnh thời đại tạo
nên thế và lực tổng hợp cưc kỳ to lớn để Việt Nam đi tới mục tiêu của mình. Hồ
Chí Minh đã coi chân lý là những gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Độc lập
Tự do - Hạnh phúc trong mục tiêu của CNXH ở Việt Nam chính là thước đo, là hệ quy
chiếu, là tiêu chuẩn của chân lý cho tất cả các hoạt động của chúng ta.
Lịch sử về chính trị của nhân loại
trong thế kỷ XX không có gì khác hơn là lịch sử đấu tranh vì quyền cơ bản của
các dân tộc và con người. Hồ Chí Minh đã nhìn thấy vấn đề dân tộc và con người
của \/iệt Nam,
của nhân loại xuyên qua moị thời gian và đã có phương thức giải quyết thích
hợp. Người đã chiến thắng khi dựa trên nền tảng văn hóa của dân tộc và giá trị
chung của nhân loại. Kinh nghiệm của cách mạng \/iệt Nam và thế giới trong thế
kỷ XX cho thấy ở những nơi và thời điểm nào đó mà vấn đề dân tộc và con người
không được giải quyết đúng đắn, tự nó sẽ hạn chế, triệt tiêu động lực và thậm
chí cả những thành quả cách mạng được xây đắp trong nhiều thập kỷ.
Đi tìm nét tương đồng, điểm quy tụ của toàn dân tộc trong tư
tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh
TS.
Bùi Đình Phong
Chủ đề Đại hội IX của Đảng là phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội khẳng định: "Động lực
chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa cả
lợi ích cá nhân, tập thể xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các
thành phần kinh tế, của toàn xã hội". Đó là một bước đột phá trong tư duy
lý luận của Đảng. Nó không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong thời điểm hiện tại
mà còn có giá trị to lớn, sâu xa trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam từ
nay về sau.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn
dân, điều quan trọng là phải phát hiện được những nét tương đồng, điểm quy tụ
thay vì khoét sâu sự cách biệt, không ngừng bồi đắp những yếu tố đó, đem lại
cho nó sức mạnh mới, nguồn sinh khí mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho
chúng ta những bài học quý giá, bổ ích, mà đến hôm nay và mai sau vẫn là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam, soi đường cho việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân.
Một là, phát huy sức mạnh cộng
đồng dân tộc trên cơ sở một cái nôi chung, cùng một dòng dõi tổ tiên, tự hào về
nòi giống Tiên Rồng.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc, điều mà Bác Hồ quan tâm trước hết và thường xuyên là giáo dục cho
mọi người hiểu rằng, tất cả chúng ta đều là con cháu Hồng - Bàng, con Lạc cháu
Hồng, con Rồng cháu Tiên. Nói tới điểm này là Người nhắc nhở tới gốc tích nước
nhà, cội nguồn dân tộc. Dân tộc nào trên thế giới cũng có lịch sử của dân tộc
mình. Và nhắc tới lịch sử dân tộc là trở về nguồn, trở về cái thiêng liêng nhất
của mỗi dân tộc, đó cũng là cội nguồn của sức mạnh.
Nhưng với dân tộc Việt Nam, khi
bàn về cội nguồn dân tộc, ta thấy rõ nét đặc thù, không giống nhiều dân tộc
khác trên thế giới. Tính đặc thù của cội nguồn dân tộc thể hiện ở chỗ nhân dân
yêu mến cái nôi chung, tự hào về nòi giống Tiên Rồng của mình. Bởi thế cho nên,
như Bác Hồ truyền lại, chỉ có dân tộc ta mới biết dùng hai tiếng "đồng
bào" với đúng nghĩa chân thực và sâu xa của nó. "Đồng bào" - hai
tiếng thiêng liêng đó nảy nở từ rất sớm và được khắc sâu trong tâm trí con
người mà hơn nghìn năm đô hộ của Hán Đường không sao xóa nhòa được. "Đồng
bào" chính là một nét tiêu biểu của một nền văn hóa thống nhất trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Có nơi nào trên thế giới như dân tộc Việt Nam cùng
thờ một đức vua chung là Vua Hùng có công dựng nước: Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba.
Dân gian có câu:
Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn
Từ chiều sâu việc nghiên cứu truyền thống văn hóa dân tộc, Bác Hồ dạy:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Kể năm hơn bốn ngàn năm
Tổ tiên rực rỡ anh em thuận hòa
Hồng Bàng là tổ nước ta
Nước ta lúc đó gọi là Văn Lang
Từ khi về nước cùng Đảng ta lãnh
đạo cách mạng và kháng chiến, trong tất cả các bức thư, lời kêu gọi, Bác Hồ đều
mở đầu bằng một câu có hai chữ "đồng bào", như "kính gửi đồng
bào yêu quý"... Đây không phải là sự ngẫu nhiên mà hoàn toàn có cơ sở và
chủ đích. Người khơi dậy nét tương đồng sâu xa về văn hóa của con người và
dântộc Việt Nam. Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng " Thư kêu gọi khởi nghĩa
của Nguyễn ái Quốc thì rõ ràng là chú trọng hết sức đúng mức đến vai trò của
"toàn quốc đồng bào", rằng "giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc
đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta".
Hai là, dân ta đã có một lòng
nồng nàn yêu nước
Yêu nước là tư tưởng và tình cảm
phổ quát của nhân dân các quốc gia dân tộc trên thế giới. Nhưng tùy theo điều
kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tinh thần yêu nước của mỗi quốc gia
dân tộc mang nội dung đặc điểm không giống nhau. Đối với người Việt Nam chúng
ta, chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm tinh thần cao qúy nhất của dân tộc Việt Nam,
là tư tưởng và tình cảm thiêng liêng giữ vị trí chuẩn mực cao nhất của đạo lý
làm người Việt Nam và đứng đầu bậc thang giá trị dân tộc. Tinh thần đó đã phát
huy sức mạnh vô biên của nó trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, là mẫu
số chung, điểm quy tụ, một động lực nội sinh của cộng đồng dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng đất nước.
Bác Hồ từ lúc ra đi tìm đường
cứu nước đã chuẩn bị sẵn trong hành trang của mình những yếu tố có trọng lượng
nhất, đó là lòng yêu nước và thương dân sâu sắc. Người không chỉ chuẩn bị cho
mình mà trang bị cho cả dân tộc các thứ của qúy đó. Từ lúc tìm được lý luận cách
mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã nâng cao lòng yêu nước,
thương nòi của đồng bào lên một trình độ mới, một chất mới, đồng thời thường
xuyên giáo dục mỗi con Hồng cháu Lạc phải biết nuôi dưỡng lòng yêu nước để thực
hiện sứ mệnh giải phóng dân tộc. Có người vì chủ nghĩa yêu nước là chiếc gậy
thần của Nguyễn ái Quốc trong cuộc hành trình vạn dặm tìm đường cứu nước. Chủ
nghĩa yêu nước là chất keo kết dính mấy mươi triệu con Rồng cháu Tiên, tạo nên
sức mạnh toàn dân tộc thực hiện nhiệm vụ đánh đế quốc, giành độc lập dân tộc.
Đồng chí Nguyễn Lương Bằng nhớ
lại trong những lần gặp Bác. Người dặn: "Không nên chỉ hô hào thợ thuyền,
dân cày chung chung. Không nên nói vô sản một cách cứng nhắc, Trước mắt chúng
ta là phải đánh đổ thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Cho nên phải khơi lòng
yêu nước của mọi người".
Đúng là phải khơi lòng yêu nước
của mọi người và của mỗi người. Bởi vì trong quan niệm của Bác, đã là người
Việt Nam, chỉ trừ lũ Việt gian bán nước, ác qủy ma tà, còn lại ít nhiều đều có
lòng yêu nước. Nếu ta biết nhen nhóm đốm than hồng thì sẽ bùng lên ngọn lửa,
cháy rực lên biển lửa, quét sạch giặc ngọai xâm. Đây là bài học của lịch sử, là
sức mạnh của hiện tại, là bệ phóng cho tương lai. Bác Hồ tổng kết: "Dân ta
có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống qúy báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".
Nhận thức đầy đủ tinh thần yêu
nước như một thứ của qúy, là cái lẽ sinh tồn cảu dân tộc, sợi dây kết nối toàn
dân tộc, Bác Hồ xác định "bổ phận của chúng ta là làm cho những của qúy
kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên
truyền, tổ chức, lãnh đạo, đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc
kháng chiến".
Ba là, chúng ta có cái thù chung
là bọn cướp nước, có nguyện vọng chung là quyền lợi giải phóng dân tộc cao hơn
hết thảy.
Đại đoàn kết theo quan điểm của
Bác Hồ, vừa phải có nền gốc bao gồm công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân
dân lao động khác, vừa phải rộng rãi. Nhưng rộng rãi trên cơ sở nào? Cùng với
cái nôi chung, tự hào về nòi giống Tiên Rồng của mình với một tư tưởng yêu nước
đậm đà, để đoàn kết được rộng rãi, phải thấy rằng đã là người Việt Nam yêu nước
thì đều có cái thù chung là bọn cướp nước. Vì vậy theo quan điểm của Bác
"dù có cái thù hiềm riêng cũng phải bỏ hết. Bỏ thù riêng để trả thù chung,
đó là thực hiện đoàn kết rộng rãi và giành thắng lợi".
Cái hạt nhân hợp lý trong quan
điểm của Bác Hồ chính là ở chỗ trên cơ sở nắm vững những vấn đề có tính nguyên
tắc, phương pháp luận trong học thuyết Mác-Lênin, nhuần nhuyễn quan điểm giai
cấp công nhân, Người hiểu rất rõ thực tế Việt Nam. Không nghiên cứu công việc
thực tế, kinh nghiệm thực tế, chỉ đơn thuần lý luận hoặc đơn thuần lý luận đấu
tranh giai cấp thì sẽ không bao giờ có Mặt trận dân tộc thống nhất đoàn kết
rộng rãi đúng nghĩa ở Việt Nam. Bác viết: "Nghe người ta nói giai cấp đấu
tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước
mình như thế nào để làm cho đúng".
Từ khi nước ta trở thành thuộc
địa Pháp, trên cơ sở phân tích cấu trúc kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam, Bác Hồ đã chỉ ra ở nước ta tồn tại
hai mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân Việt Nam với giai cấp địa chủ phong kiến,
trong đó mẫu thuẫn thứ nhất vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Toàn thể dân tộc Việt Nam
phải bền lòng, đồng minh - ra sức đánh thực dân cướp nước, giải phóng dân tộc.
Cách nhìn nhận và phân tích có
tính khoa học, hợp lý hợp tình đó, là cơ sở để Bác Hồ mạnh dạn phê phán quan
điểm giai cấp đơn thuần, cứng nhắc, không phân biệt rõ đâu là vấn đề xuất thân,
đâu là lập trường giai cấp công nhân. Mà nếu không xác định và phân biệt rõ
điều này thì cũng không bao giờ có thể đoàn kết được rộng rãi theo tinh thần
"ai có tài, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta
đoàn kết với họ". Bác viết: "Địa chủ cũng có đôi người làm cách mạng...
Họ tuy là người trong giai cấp công nhân.. Vấn đề xuất thân có quan hệ thật,
nhưng nếu xuất thân là địa chủ mà đứng về phía nông dân, thì không phải là địa chủ
nữa".
Đó chính là chủ nghĩa Mác-Lênin
được vận dụng đúng đắn vào thực tế Việt Nam. Bởi vì chủ nghĩa Mác-Lênin dạy
chúng ta rằng: muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn ai
là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Chủ nghĩa Mác-Lênin còn dạy
chúng ta rằng: trong khi dựa vào lý luận chung, những người cộng sản phương
Đông phải thích ứng với những điều kiện riêng biệt mà các nước châu Âu không
có. Bác Hồ đã khai thác triệt để và hoàn toàn hợp lý quan điểm này trong khi
triển khai chiến lược đại đoàn kết. Người cho rằng cuộc đấu tranh giai cấp ở
các nước phương Tây. Và chủ nghĩa dân tộc là động lực của đất nước. Chủ nghĩa
dân tộc nói ở đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính. Mà đã là chủ nghĩa dân tộc
chân chính thì nó là một bộ phận và nhất định sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế.
Và như vậy không chỉ đơn thuần là đoàn kết trong phạm vi dân tộc, mà còn mở
rộng ra phạm vi quốc tế.
Nói tóm lại, để thực hiện được
chiến lược đại đoàn kết, trước hết là đoàn kết dân tộc, với ý nghĩa vừa là nhân
vừa là quả của công tác dân vận, thời nào cũng vậy, phải tìm được mẫu số chung
của toàn dân tộc. Mẫu số chung này không nằm ở đâu xa mà hiện hữu trong sự
thống nhất với tính đa dạng của nền văn hóa dân tộc. Nước ta có 54 dân tộc anh
em, nhưng do sự gắn bó lâu đời trong một quốc gia thống nhất, do yêu cầu chống
thiên tai, chống ngoại xâm và do sự giao lưu hội nhập văn hóa, cả cộng đồng dân
tộc Việt Nam vẫn có mẫu số chung của một nền văn hóa thống nhất, một ý thức
chung về đại nghĩa dân tộc, về vận mạng cộng đồng. Trước đây, trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, mẫu số chung đó là quyết giành cho kỳ được độc lập tự do, xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập tự do, xây dựng một nước dân
chủ và giàu mạnh. Ngày nay, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, Đảng ta khẳng định: "Phát huy
sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường
và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng
những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc
cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng
tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai".
Một
số luận điểm về đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh
TS. Ngô Văn Khoa
Đại học Sư phạm
Hà Nội
Tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh là nội dung
rất lớn và quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Dưới đây tôi chỉ đề cập đến
một số luận điểm lớn.
Tháng 9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước
ta, triều đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt dần dần đi đến đầu hàng, nhưng nhân
dân Việt Nam không chịu khuất phục đã nổi dậy đấu tranh quyết liệt chống lại
bọn cướp nước và bè lũ bán nước. Song tất cả các phong trào đấu tranh của nhân
dân ta đều bị thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa có đường lối đúng đắn
của giai cấp tiên tiến lãnh đạo. Hầu hết các phong trào dân tộc nổi lên lẻ tẻ
từng địa phương, từng vùng với mục tiêu khẩu hiệu mang nặng màu sắc phong kiến
hoặc tư sản, tiểu tư sản. Chính trong bối cảnh ấy, Hồ Chí Minh đã đáp ứng được
yêu cầu đòi hỏi cách mạng Việt Nam.
Tháng 6-1911, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước.
Khác với mục đích "cầu viện" dựa vào sự giúp đỡ nước ngoài để đánh
Pháp giành độc lập cho dân tộc như Phan Bội Châu và một số nhà yêu nước khác.
Với Hồ Chí Minh, như Người đã nói: "Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và
các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng
ta".. Như vậy là không phải với mục đích "cầu viện" mà là trên cơ
sở nhận thức được thời đại mới được mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga 1917,
là quá trình vận động kiểm nghiệm gần 10 năm, bằng thiên tài trí tuệ của mình,
vượt qua sự hạn chế của chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu và các nhà cách mạng
có xu hướng đương thời, Người đã sớm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, ánh sáng soi đường
cho các dân tộc bị áp bức.
Hồ Chí Minh là người đầu tiên đã gắn phong trào cách
mạng Việt Nam với cách mạng thế giới đưa nhân dân ta đi đúng quỹ đạo của thời đại.
Người chỉ rõ: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản"; xác định rõ các mối quan hệ mới của cách
mạng Việt Nam: quan hệ với cách mạng vô sản, quan hệ với phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc.
Theo Người, muốn thực hiện đoàn kết quốc tế điều đầu
tiên là phải xác lập vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Mỗi một quốc gia,
dân tộc không thể phát triển được nếu như không mở rộng quan hệ với thế giới
bên ngoài. Vậy muốn quan hệ được trước hết phải làm cho thế giới hiểu biết Việt
Nam. Vì lúc này, thực dân Pháp đã bưng bít, xóa tên Việt Nam trên bản đồ thế
giới.
Năm 1919, Nguyễn ái Quốc đã gửi đến Hội nghị
"hòa bình" Vecxây "bản yêu sách của nhân dân An Nam" trong đó
có điểm yêu sách là: Người Việt Nam có quyền tự do xuất ngoại và đi du lịch nước
ngoài. Phải nói đây là lần đầu tiên Nguyễn ái Quốc xuất hiện trên vũ đài quốc
tế và Người đã sát cánh cùng các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho sự bình đẳng,
hợp tác quốc tế.
Sự kiện này đã gây tiếng vang lớn, hướng sự chú ý
của thế giới vào Việt Nam. Qua việc đưa yêu sách không chỉ Pháp, các nước tham
dự hội nghị và nhiều nước khác đã biết đến Việt Nam. Cũng từ đây đã làm cho vị
trí Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng củng cố và phát triển. Chính Hồ Chí
Minh là người đã mở cửa Việt Nam ra thế giới đặt nền móng cho mối quan hệ đoàn
kết quốc tế.
Từ rất sớm Người đã tìm thấy một trong những nguyên
nhân dẫn đến thất bại của phong trào Việt Nam trước khi Đảng ra đời là
"nhân dân ta không hiểu tình hình thế giới". Người còn chỉ rõ tình
hình biệt lập, khép kín không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn là tình trạng chung
của những nước phương Đông. Những nhận thức trên rút ra từ quá trình gần 10 năm
vận động, kiểm nghiệm trên nhiều nước. Năm 1924 trong thư gửi đại diện quốc tế
cộng sản, Hồ Chí Minh nêu: "Tôi đã ngẫm nghĩ từ lâu về nguyên nhân đầu
tiên đã dẫn tới sự suy yếu của các dân tộc phương Đông đó là sự biệt lập".
Ngoài nhận thức trên, Người cũng đã sớm xác định, cuộc đấu tranh của chúng ta
là bộ phận của cách mạng thế giới. Như vậy, từ lời phát biểu đầu tiên tại Đại
hội Tua (12-1920) trở về sau, Người luôn khẳng định cuộc cách mạng của các dân
tộc bị áp bức đều có quan hệ với nhau.
Thứ hai, tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh đòi
hỏi phải định rõ đoàn kết với ai, chống lại ai, đây là vấn đề có tầm quan trọng
đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến thắng lợi của cách mạng.
Như ta đều biết, trong quá trình tìm đường cứu nước,
Hồ Chí Minh đã đi nhiều nước thuộc địa cũng như nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Người
đã chứng kiến cảnh cùng cực, khốn cùng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản. Từ đó Người đã đưa ra
kết luận quan trọng: ở đâu, dù ở các nước thuộc địa, phụ thuộc hay chính quốc,
những người lao động đều bị bóc lột, áp bức nặng nề, ở đâu bọn đế quốc thực dân
cũng tàn bạo độc ác. Người nêu ra: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này
chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng
chỉ có một mối tính hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản". Kết luận
trên cực kỳ quan trọng, đây là khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí
Minh - đoàn kết với những người lao khổ, cần lao trên thế giới.
Từ kết luận trên, Người đã phân biệt rõ hơn bọn thực
dân đế quốc với nhân dân lao động ở chính quốc. Người nêu lên: thực dân đế quốc
là kẻ thù chung của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động
chính quốc. Bởi vậy, đòi hỏi sự đoàn kết liên minh nhân dân lao động ở thuộc địa
và chính quốc để chống lại kẻ thù chung. Trong lời kêu gọi nhân dân các nước
thuộc địa Pháp, Người đã nêu: "Những người gây ra sự lầm than cho các bạn
và giữ các bạn trong cảnh khổ đó để lợi dụng chỉ là một số ít, chúng có quyền
hành vì chúng giàu. Chúng tôi là số đông và đang đấu tranh chống lại chúng vì
chúng tôi cũng như các bạn là nạn nhân của sự tàn bạo của chúng, mối quan hệ
giữa chúng tôi với các bạn, sẽ là những mối quan hệ đoàn kết và liên
minh". Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa Người nêu: "Hỡi
các bạn bị áp bức ở chính quốc! Giai cấp tư sản trong nước các bạn đã lừa dối
các bạn, dùng các bạn làm công cụ đi xâm lược đất nước chúng tôi. Ngày nay, vẫn
dùng các chính sách quỷ quyệt ấy, giai cấp tư sản nước các bạn lại định dùng
chúng tôi để đàn áp mọi cố gắng tự giải phóng của các bạn. Đứng trước chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa đế quốc quyền lợi của chúng ta là thống nhất, các bạn hãy
nhớ lời kêu gọi của Các Mác: "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại".
Nguyễn ái Quốc đã nêu lên hình tượng chủ nghĩa tư bản là con đỉa hai vòi. Một
vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở
thuộc địa. Muốn giết con vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi, nếu chỉ cắt một
vòi thì vòi còn lại tiếp tục hút máu và vòi bị cắt tiếp tục mọc ra. Điều đó cho
chúng ta thấy nhiệm vụ chống chủ nghĩa tư bản đánh đổ chúng là nhiệm vụ của
nhân dân lao động chính quốc và thuộc địa. Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải đoàn kết cả
hai lực lượng nói trên.
Về sự liên minh đoàn kết đấu tranh của nhân dân lao động
ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, Nguyễn ái Quốc chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc hiện
tại đặt nền móng trên sự bóc lột hàng triệu người lao động ở các nước thuộc địa
và nửa thuộc địa. Bởi thế, nó chỉ tan rã hoàn toàn và vĩnh viên khi nào chúng
ta phá bỏ được nền móng đó của lâu đài đế quốc chủ nghĩa. Vì lẽ đó, các nước
thuộc địa và phụ thuộc muốn được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của chủ
nghĩa tư bản thì chỉ bằng cách đoàn kết chặt chẽ để chống kẻ thù chung.
Là người dân thuộc địa Người thấy được khả năng tiềm
tàng tin tưởng vào sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào
thắng lợi của cuộc đấu tranh của họ.
Thứ ba, nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản và công nhân
ở chính quốc. Để thực hiện sự đoàn kết giữa nhân dân lao động chính quốc và
nhân dân lao động thuộc địa, Nguyễn ái Quốc đòi hỏi các Đảng Cộng sản và giai
cấp công nhân ở chính quốc phải có hiểu biết đúng về thuộc địa và có sự giúp đỡ
thiết thực đối với những người anh em thuộc địa. Trên tinh thần đó, Người đã
nghiêm khắc phê phán một số Đảng Cộng sản chưa có chính sách và hành động tích
cực giúp đỡ các thuộc địa.
Thứ tư, xác định lập trường của đoàn kết quốc tế.
Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng được khối đoàn kết quốc tế phải dựa trên cơ sở
chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Ngay từ năm 1923, Người đã chỉ
ra: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết,
ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui hòa bình
hạnh phúc, tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới
tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cách những người
lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau". Như vậy, chỉ có đứng
trên lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin thì mới đảm bảo sự đoàn kết thực sự chân
chính.
Thứ năm, tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh còn
chỉ ra những điều kiện, nguyên tắc, hình thức tập hợp lực lượng. Muốn thực hiện
được đoàn kết quốc tế phải có chính Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Bởi lẽ, chỉ có Đảng mới vạch ra được đường lối và có khả năng tập hợp lực lượng,
chịu trách nhiệm thực hiện được đoàn kết rộng rãi lực lượng trong nước cũng như
quốc tế. Làm được điều đó, vì Đảng được vũ trang bằng lý luận khoa học tiên
tiến nhất, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin. Xem xét đối tượng đoàn kết quốc tế Hồ Chí
Minh xác định rất rõ ràng. Đó là các lực lượng phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế; lực lượng phong trào giải phóng dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc;
phong trào hòa bình và tiến bộ trên thế giới. Tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí
Minh không những để giải phóng dân tộc mình mà còn giải phóng cho các dân tộc
bị áp bức mang lại tự do bình đẳng thật sự cho dân tộc quốc tế. Bởi vậy, đòi
hỏi phải tuân thủ nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nguyên tắc này
sẽ giúp chúng ta giải quyết nhiều mối quan hệ chồng chéo phức tạp để đi đến đoàn
kết, đó là giữa các Đảng Cộng sản với nhau, giữa dân tộc này với dân tộc
khác...
Để có được đoàn kết quốc tế phải thông qua hoạt động
thực tiễn và gắn liền với các hình thức tổ chức thích hợp nhằm tập hợp lực lượng.
Chính vì lẽ đó trong thời gian ở nước ngoài Người đã tham gia tích cực phong
trào cách mạng của công nhân Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc... từng bước xây dựng
nhiều tổ chức quốc tế như: Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức ở á Đông (1925)... là nhà cách mạng hoạt động tích cực trong Đảng
Cộng sản Pháp, Quốc tế III, các Quốc tế Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ... thường
xuyên mở rộng với nhiều chính khách, các nhà hoạt động xã hội... tất cả mọi
hoạt động nói trên của Người đều hướng vào mục tiêu thêm bạn cho cách mạng Việt
Nam.
Thứ sáu, mối quan hệ dân tộc và quốc tế. Nhận thức đúng
đắn thời đại mới - thời đại cách mạng vô sản, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã xác định
cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới; cách mạng Việt Nam chỉ
thắng lợi một khi nó hòa chung vào làn gió thời đại, hòa chung vào dòng chảy
tiến trình phát triển của nhân loại. Cách mạng Việt Nam phải có trách nhiệm và
bước phát triển chung của nhân loại. Muốn góp phần vào bước tiến của cách mạng
thế giới, cách mạng mỗi nước nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng phải hoàn
thành tốt những yêu cầu của cách mạng nước mình. Việc kết hợp giữa dân tộc và
quốc tế trước hết là phục vụ mục tiêu độc lập tự do cho Tổ quốc.
Trên đây là một số luận điểm về đoàn kết quốc tế Hồ
Chí Minh. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta đã vận dụng và
phát triển và đã trở thành một trong những nhân tố dẫn đến thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Theo ngọn cờ đoàn kết của Hồ Chí
Minh
. PGS.
TS. Mạch Quang Thắng
1.
Đoàn kết vì
đại nghĩa của dân tộc.
Trong
cuộc sống của một cộng đồng dân tộc có rất nhiều mối quan hệ phong phú, đan
chéo nhau. Bóc tách ra một cách tương đối, chúng ta thấy có những
"cặp" như: cá nhân - tập thể; gia đình - xã hội; bộ phận - toàn thể;
giai cấp - dân tộc; quốc gia - quốc tế... Giữa các cặp quan hệ đó đều có hai
mặt: thống nhất và mâu thuẫn. Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú trọng nhân lên sự
thống nhất trong các mối quan hệ đó.
Một
quan điểm lớn trong tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là: Tổ quốc trên hết.
Người chú ý phát huy chữ "đồng" để giải quyết những yếu tố khác biệt.
Khi đề cập các mối quan hệ, nhất là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng dân
tộc, Hồ Chí Minh trước hết nói đến sự gắn bó, thống nhất, nhưng nếu có mâu
thuẫn thì quan điểm nhất quán của Người là phải hy sinh lợi ích của cá nhân cho
lợi ích chung của Tổ quốc. Điều này được thể hiện ở cả thời chiến lẫn thời
bình. Trong thời bình, lợi ích (nhất là lợi ích vật chất) được đặt ra trước tất
cả mọi người và có sức tác động lớn.
Mất đoàn kết là mất tất cả! ở nơi nào mất đoàn
kết thì ở đấy bầu không khí chính trị - xã hội bị ô nhiễm với các biểu hiện: sự
nghi kỵ, chia bè cánh, có tình trạng đấu đá, lật đổ, sự thật bị bóp méo, trắng
đen lẫn lộn, công việc bê trễ, v.v.. Chỉ một đoạn ngắn sau đây mà Hồ Chí Minh
đã 6 lần lặp lại hai chữ "đoàn kết": "Đoàn kết là lực lượng mạnh
nhất của chúng ta. Chúng ta phải đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ. Đoàn kết giữa
Chính phủ và nhân dân. Đoàn kết giữa các tầng lớp trong nhân dân với nhau. Đoàn
kết giữa đồng bào toàn quốc, từ Bắc chí Nam... Đoàn kết chặt chẽ lực lượng
trong nước và ngoài nước, chúng ta nhất định khắc phục được mọi khó khăn một
cách thắng lợi" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb CTQG,H., 1996, tr.364).
Trong Di chúc, ở đoạn ngắn viết về Đảng, Hồ Chí Minh cũng đã nhắc đi nhắc lại 5
lần chữ "đoàn kết" (Sđd, t.12, tr. 497).
Không
thể có đoàn kết khi không có những điểm tương đồng, không có "mẫu số
chung". Ngọn cờ đại nghĩa Hồ Chí Minh được giương lên để tập hợp sức mạnh
của toàn dân là bởi những điểm tương đồng đó. Người cho rằng: để dẫn dắt nhân
dân làm nên một sự nghiệp vĩ đại cần phải có một sức lãnh đạo, sức lãnh đạo đó
không phải chỉ có một vài người thôi mà phát sinh ra từ sự hiệp lực của nhiều
người. Muốn cho mọi người đoàn kết chặt chẽ với nhau thì họ phải cùng một lý
tưởng và ý chí, họ phải nuôi một kỳ vọng giống nhau. Khi nào có cùng một ý chí,
cùng kỳ vọng thì khi ấy mới có đoàn kết, bằng không thì dẫu có hô hào đoàn kết
mấy đi nữa cũng không thể nào đoàn kết được.
Điểm
tương đồng, "mẫu số chung" của dân tộc là "Không có gì quý hơn
độc lập, tự do", là xây dựng một đất nước hùng cường, là hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân, chủ và giàu mạnh, v.v.. Đó chính là điểm quy tụ là Bác Hồ
luôn để tâm đến, dẫn dắt mọi người đi theo đấu tranh thực hiện cho kỳ được.
Chính vì thế mà Hồ Chí Minh đã quy tụ được tuyệt đại đa số nhân dân vào mặt
trận dân tộc thống nhất. Trong mặt trận ấy, quyền của mỗi cá nhân, quyền của
mỗi cộng đồng đều được đặt vào trong quyền lợi tối cao của dân tộc.
Mặt
trận Việt Minh là minh chứng tuyệt đẹp đầu tiên thể hiện tư tưởng đại đoàn kết
của Hồ Chí Minh vì đại nghĩa của dân tộc. Đảng và Bác Hồ đã nêu lên điểm tương
đồng, vì đại nghĩa của dân tộc: nếu không giành được độc lập dân tộc thì quyền
lợi của giai cấp vạn năm cũng không đòi lại được. Cũng vì đại nghĩa của dân tộc
mà Hồ Chí Minh đã phát động cuộc kháng chiến toàn dân: "Bất kỳ đàn ông,
đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có
súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy
gốc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước" (Sđd. t.4, 1995,
tr. 480).
Vì
đại nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh, với tấm lòng độ lượng, kêu gọi tất cả mọi
người, bất kể có quá khứ ra sao, đứng vào mặt trận xây dựng chế độ mới. Đương
nhiên, ngoài mục tiêu chung, ngoài điểm tương đồng, còn có tấm lòng chân thành,
đại nghĩa cũng như uy tín của cá nhân Hồ Chí Minh. Đứng dưới ngọn cờ đại nghĩa
của Hồ Chí Minh, ai cũng thấy yên tâm, tự hào vì đã góp sức mình cho Tổ quốc.
Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh đã giác ngộ được rất nhiều người từ bỏ mặc cảm,
chính kiến, từ bỏ cả vinh hoa phú quý, không ngại gian khổ với mục đích cao đẹp
là phục vụ lợi ích tối cao của dân tộc, của cách mạng.
Tấm
lòng Bác Hồ là như vậy, không gợn chút riêng tư, tất cả vì quyền lợi của dân
tộc, gạt bỏ những dây dợ cá nhân vướng víu dưới chân mình. Người chỉ nghĩ đến
Tổ quốc, đến đồng bào, để lại một sự nghiệp mà bất cứ người Việt Nam có lương
tri nào cũng phải ngưỡng mộ và muốn học tập. Hồ Chí Minh đã truyền cho Đảng ta
một chiến lược: chiến lược đi vào lòng người, tất cả vì hạnh phúc của con
người, vì độc lập, tự do cho Tổ quốc Việt Nam.
2.
Công - nông -
trí là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc
Đoàn kết ở mọi lúc, mọi nơi, đoàn kết thật rộng rãi, biên độ tập hợp mọi người
đoàn kết mở hết cỡ có thể được - đó là quan điểm của Hồ Chí Minh. Chẳng thế mà
Bác Hồ đã đề cập phạm vi "đồng bào", "con Rồng, cháu Tiên",
nghĩa là mượn hình tượng Mẹ Âu Cơ để "quy nạp" vào phạm vi tối đa cần
phải tập hợp. Có người tham gia cách mạng trên chiến khu Việt Bắc rất ngại mình
có thành phần xuất thân từ gia đình quan lại phong kiến thì Bác giải tỏa tâm
lý: "Con quan thì tốt chứ sao! Bác cũng là con quan đây". Có người là
địa chủ, là tư sản, Bác khuyến khích họ tham gia kháng chiến. Thậm chí, có
người làm quan trong chế độ cũ, nhưng cũng có thể cải tạo đi theo cách mạng.
Chúng ta có lúc thật ngỡ ngàng với cái "biên độ" tập hợp lực lượng đó
của Hồ Chí Minh. Dưới khối đoàn kết ấy, mọi người dân Việt Nam yêu nước, dù có
quá khứ ra sao, thành phần xuất thân như thế nào đều cảm thấy hòa hợp. Như vậy,
lực lượng cách mạng, theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh, là những chuỗi số ngày một
gia tăng chứ không phải là giảm đi.
Với "biên độ" như vậy,
đã có người lo lắng cho "lập trường giai cấp" của Bác. Nhưng, Hồ Chí
Minh quan niệm về cái nền, cái nhân, cái lõi của biên độ ấy rất chắc: đó là
liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức (gọi
tắt là công - nông - trí). Quan điểm về liên minh công - nông - trí của Bác Hồ
đã ghi đậm trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ngày 3-2-1930 và sau
này được nhắc lại trong nhiều văn kiện. Đây là một điểm sáng tạo của Hồ Chí
Minh so với học thuyết Mác - Lê-nin, vì học thuyết này chỉ đề cập liên minh
công -- nông, chứ không đề cập "trí".
Chúng
ta có thể làm phép so sánh. Phong kiến Việt Nam cũng theo quan điểm nho giáo
của trung Quốc chia xã hội thành hai loại người là tiểu nhân và quân tử. Trong
quân tử không có người lao động chân tay và tầng lớp phụ nữ - những người bị
nho giáo khinh rẻ và xếp vào "tiểu nhân", "dân ngu khu
đen". Còn quân tử, theo nho giáo, gồm các quan lại, trí thức phong kiến,
những quan "phụ mẫu" chăn dắt dân. Phong kiến Việt Nam dù sao cũng có
những yếu tố tiến bộ khi tiếp thu nho giáo gốc ở Trung Quốc. Những lúc bị xâm
lăng thì người lao động chân tay - chủ yếu là nông dân - không bị coi rẻ nữa mà
được "khoan thư sức dân", được coi là lực lượng ,"chở thuyền và
lật thuyền", là những ngưới "áo vải cờ đào" đứng trong đội quân
chủ lực ra trận đánh quân thù. Nhưng, nói chung, nòng cốt của xã hội,
"những người làm nên lịch sử", không được phong kiến Việt Nam coi là
nhân dân lao động, mà lại là vua quan, trí thức phong kiến.
Những người theo tư tưởng tư sản ở
Việt Nam quan niệm về dân có tiến bộ hơn. Chẳng hạn, Cụ Phan Bội Châu, trong
chủ trương tập hợp lực lượng cách mạng, nêu lên 10 lực lượng như sau: 1) Phú
hào; 2) Quý tộc; 3) Sĩ phu; 4) Lính tập, 5) Tín đồ Thiên Chúa giáo; 6) Du đồ
hội đảng; 7) Nhi nữ anh sĩ; 8) Thông ngôn; 9) Ký lục; 10) Bồi bếp. Tiến bộ hơn
vì cũng đã có binh lính (là những người nông dân mặc áo lính); nhân dân theo
đạo Thiên Chúa; phụ nữ,... Kể ra thì có nhiều lực lượng nhưng vẫn thiếu, mà lại
thiếu hai lực lượng cơ bản nhất của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 là nông dân và
công nhân. Đầu thế kỷ, công nhân Việt Nam đã có, tuy không nhiều, và nó ngày
một phát triển do chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Có thể Cụ
Phan Bội Châu lúc đầu chưa nhận ra, nhưng nông dân Việt Nam thì ở đâu mà chẳng
có, mà có rất đông, khoảng 95% dân số. Về cuối đời, Phan Bội Châu đã kịp nhận
ra sức mạnh của công nông, nhưng Cụ đã ở vào thế sức tàn lực kiệt. Lúc ấy,
trách nhiệm lịch sử giương cao ngọn cờ cứu nước đã chuyển sang những chiến sĩ
theo lập trường cách mạng vô sản mà Bác Hồ đã đào tạo, bồi dưỡng.
Hồ
Chí Minh đã thấy rất rõ vai trò cực kỳ to lớn của giai cấp công nhân Việt Nam.
Nó tuy ít về số lượng và công nhân đại công nghiệp, đại cơ khí theo quan niệm
của C.Mác lại càng ít, nhưng có đầy đủ những phẩm chất cần có để đóng vai trò
quân chủ lực và là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Bác Hồ thấy rõ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam
là người chịu trách nhiệm lãnh đạo cách mạng Việt Nam
đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng một nước Việt Nam mới. Xin nhấn mạnh là Bác thấy
rõ điều đó không chỉ qua lý luận Mác - Lê-nin mà còn qua sự cảm nhận trực tiếp
của bản thân mình khi trở thành người thợ, người làm thuê trong những năm ở
châu Âu, châu Mỹ. C.Mác và gia đình của ông đã trải qua những thời kỳ khốn khó
khi bị trục xuất, khi bị đói kém, khi con cái bị chết... Còn Ph.Ăng-ghen khi
viết tác phẩm nổi tiếng Tình cảnh giai cấp công nhân Anh thì bản thân ông không
bị lâm vào hoàn cảnh nghèo khó. V.I.Lê-nin, tuy có cuộc đời gian nan nhưng chưa
lâm vào hoàn cảnh của người thợ bị bóc lột. Đặc biệt thay, Bác Hồ của chúng ta
chủ động, tự nguyện dấn thân vào hàng ngũ của những người thợ, một người trí
thức dám chấp nhận gian nan, khổ ải, chối từ con đường giàu sang phú quý để
sang Pháp và các nước khác ở Âu, Mỹ lao động chân tay: làm thủy thủ mà việc cụ
thể là đốt lò, tạp vụ... trên tàu; cào tuyết, bồi bàn trong khách sạn; sửa ảnh;
vẽ thuê đồ gốm sứ; v.v.. Như vậy là Bác đã cảm nhận được trực tiếp thân phận
cũng như sức mạnh của những người lao động làm thuê khi được giác ngộ, được tổ
chức lại.
Hồ
Chí Minh cũng thấy rất rõ vai trò và sức mạnh của giai cấp nông dân Việt Nam.
Điều này thì quá rõ, bởi vì Người xuất thân từ gia đình trí thức phong kiến gắn
với lao động nông nghiệp (làm ruộng, dệt vải). Đây là nét thường thấy trong hầu
hết các gia đình nhà nho ở Việt Nam.
Người còn cảm nhận trực tiếp về đời sống, tâm tư và sức mạnh của nông dân. Bản
thân Người đã trực tiếp tham gia các cuộc biểu tình đấu tranh của nông dân Thừa
Thiên - Huế chống thuế năm 1908.
Hồ
Chí Minh còn thấy rõ vai trò của tầng lớp trí thức Việt Nam ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến và trong điều kiện một nước nghèo, kém phát triển. Họ là tầng lớp rất nhạy
cảm với thời cuộc và cũng xuất thân từ những gia đình lao động. Giữa họ với
những người lao động không khác nhau là bao và, có thể nói, Bác Hồ là hình ảnh
điển hình của mẫu người này.
Nhưng,
đứng riêng thì sức mạnh của các giai cấp, tầng lớp đó không được phát huy một
cách tốt nhất. Sức mạnh đó chỉ được phát huy khi nằm trong khối đại đoàn kết
toàn dân, nhất là trong khối liên minh công - nông - trí. Có thể nói, khối liên
minh này ở Việt Nam
là cái nền chắc chắn nhất cho chiến lược đại đoàn kết dân tộc. Trong khối liên
minh đó, giai cấp công nhân - với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam -
có vai trò lãnh đạo. Trong Mặt trận, Đảng phải tránh khuynh hướng cô độc, hẹp
hòi, đồng thời tránh đoàn kết một chiều; nghĩa là phải bảo đảm cả tính rộng rãi
và tính vững chắc của khối đại đoàn kết. Đó là hai mặt của một vấn đề có tính
nguyên tắc.
3. Đoàn kết lâu dài, thủy chung, chân thành
Muốn cách mạng thành công thì phải có lực lượng. Lực
lượng cách mạng lấy từ sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Hồ Chí Minh đã đưa ra
thông điệp về tình đoàn kết lâu dài, thủy chung, chân thành. Bản thân Bác Hồ là
hiện thân của lòng chân thành trong tất cả các mối quan hệ ứng xử với những
người chung quanh. Vì chân thành nên Hồ Chí Minh mới cảm hóa, thuyết phục được
nhiều người đi theo cách mạng. Thực tế đã cho thấy có người đến với cách mạng
là bởi cảm phục cá nhân con người Hồ Chí Minh.
Đoàn kết chân thành sẽ dẫn đễn thủy chung, lâu dài. Người ta không thể đi với
cách mạng khi thấy sự bấp bênh, lỏng lẻo trong khối đoàn kết. Trong từng thời
kỳ cách mạng, trước những yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau, có thể có sự điều chỉnh
trong phương pháp chỉ đạo, tổ chức, bố trí lực lượng, nhưng đại đoàn kết là vấn
đề bất di, bất dịch.
ở đây liên quan đến vấn đề đấu tranh giai cấp. Làm thế nào để giành thắng lợi
trong cuộc đấu tranh giai cấp mà vẫn giữ được khối đại đoàn kết toàn dân? Trước
khi cải cách ruộng đất, Bác chủ trương giảm tô, kêu gọi địa chủ hiến ruộng. Đến
lúc cải cách ruộng đất thì chuyển địa chủ thành những người lao động bằng cách
tịch thu, trưng thu ruộng đất của họ chia cho những nông dân thiếu ruộng hoặc
không có ruộng, chỉ để lại cho họ phần ruộng đất, tài sản nhất định để họ tự
lao động bảo đảm cuộc sống. Bằng cách này, giai cấp địa chủ bị "xóa
sổ" với tư cách là những người bóc lột. Đó là "đấu tranh giai
cấp" kiểu mà Hồ Chí Minh quan niệm. Rất tiếc, trong quá trình thực hiện,
nhiều nơi ở miền bắc nước ta đã phạm phải sai lầm kéo dài và nghiêm trọng. Còn
đối với tư sản dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cải tạo hòa bình, biến những tư
sản dân tộc thành người lao động, duy trì các thành phần kinh tế, kể cả thành
phần kinh tế tư nhân và công tư hợp doanh... để phát huy khả năng tổ chức quản
lý và vốn của họ, v.v.. Người cho rằng, chính sách của Chính phủ là: công tư
đều lợi, công nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài. "Công" tức là
kinh tế quốc doanh và là nền tảng lãnh đạo kinh tế. "Tư" là kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế cá thể của nông dân và thủ công nghiệp. Bác phát biểu
về quan hệ chủ thợ: "Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ
ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ lợi quyền của công
nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi
hợp lý, không yêu cầu quá mức". Người nói tiếp: "Chủ và thợ đều tự
giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên" (Sđd , t.7, tr.222).
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã phê phán kiểu đấu tranh
giai cấp giáo điều: thấy người ta nói đấu tranh giai cấp mình cũng nói đấu
tranh giai cấp mà không tính đến đặc điểm của nước ta! (Xem: Sđd, t.5, 1995,
tr.272). Làm cho những người thuộc giai cấp bóc lột đi theo công nhân, đi theo
Đảng - đó thực sự là "đấu tranh giai cấp" kiểu Hồ Chí Minh. Đoàn kết
trên cơ sở bảo đảm lợi ích cho mọi thành viên, đó là đoàn kết thủy chung, lâu
dài và chân thành nhất. Bác Hồ luôn nhất quán như vậy.
Sự nghiệp CNH,HĐH đang thực hiện ở nước ta hiện nay rất cần sức mạnh đại đoàn
kết. Trong hành trang mà Đảng và nhân dân ta tiến vào thế kỷ 21 có tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết, có ngọn cờ mà Người đã giương cao, tập hợp được các
lực lượng, phát huy được sức mạnh của cả dân tộc và thời đại.
Thực hiện những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về
đại đoàn kết toàn dân tộc
Nguyễn
Thạc Hân
Ban
Dân vận Trung ương
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc,
nhà văn hoá lớn, người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, luôn chăm lo xây dựng củng
cố phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là chiến lược đại đoàn kết Hồ
Chí Minh.
Trước hết Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân
ta vốn có lòng yêu nước nồng nàn và đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh anh dũng để
bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc. Truyền thống ấy đã trở thành thuần phong mỹ
tục của dân tộc.Trong bài nói chuyện với đại biểu nhân dân Thanh Hoá ngày
13-6-1957, Người nhấn mạnh: "Cần xây dựng và phát triển thuần phong, mỹ
tục. Các đồng chí nước bạn sang ta nói nhân dân Việt Nam rất cần cù, giản dị. Thuần
phong, mỹ tục là đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau sản xuất tiết kiệm, vì vậy
nên cần phát triển thuần phong mỹ tục".
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và
phát huy truyền thống "nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước
phải thương nhau cùng" của dân tộc ta và những tinh hoa tư tưởng đoàn kết
của nhân loại tiến bộ, nâng lên thành chân lý, thành chính sách, thành chiến lược
cách mạng.
Về nội dung, tư tưởng "đoàn
kết, đại đoàn kết" của Hồ Chí Minh rất phong phú, nhiều vẻ bao gồm tư tưởng
về đại đoàn kết dân tộc (đoàn kết cả nước, đoàn kết toàn dân không bỏ sót một
người dân nào, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống
nhất...), đoàn kết quốc tế. Phát biểu tại phiên họp bế mạc kỳ họp thứ tư, Quốc
hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá I, ngày 26-3-1955, Người chỉ rõ:
"Chính sách đối nội trước mắt của ta là: Đoàn kết toàn dân, thi đua sản
xuất... Chính sách ngoại giao của ta là: đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước
bạn". Nói chuyện tại Lớp nghiên cứu chính trị khoá II, trường Đại học nhân
dân Việt Nam, ngày 8-12-1956 Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Trong thư gửi đồng
bào cả nước, ngày 6-7-1956, Người khẳng định: "Đường lối đấu tranh của
chúng ta hiện nay là toàn dân từ Nam đến Bắc, đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ
trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam". Trong bài nói tại Đại hội liên hoan phụ
nữ "Năm tốt" ngày 30-4-1964, khi giải thích khái niệm "gia đình",
Người cũng nhắc đến đoàn kết: Theo nghĩa cũ thì gia đình chỉ giới hạn hẹp trong
một cái nhà, cái sân... Theo nghĩa mới thì gia đình rộng rãi hơn, tốt đẹp hơn.
Thí dụ những người cùng lao động trong nhà máy, trong một cơ quan, trong một
hợp tác xã... đều phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em trong một gia đình.
Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một gia đình. Ngay trong
"Kính cáo đồng bào" viết ngày 6-6- 1941, khi đất nước ta còn chìm
trong nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến đoàn kết dân tộc: "Trong
lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh
đổ đế quốc và bọn việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng".
Nói về đoàn kết trong Đảng, trong bản "Di chúc" viết ngày 10-5-1969,
Người chỉ rõ: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và
nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Chủ tịch Hồ Chí
Minh không những nêu rõ nội dung của tư tưởng đại đoàn kết mà còn chỉ ra tầm
quan trọng, những nguyên tắc, yêu cầu, phương pháp, cách thức đoàn kết. Nói
chuyện tại Lớp chỉnh huấn trung cao của Bộ Quốc phòng tháng 5 năm 1957, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Bây giờ còn một điểm rất quan trọng cũng là điểm
mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì con cháu đẻ ra đều tốt: Đó là đoàn kết".
Mà "nền gốc của đoàn kết là: đoàn kết của đại đa số nhân dân, mà đại đa số
nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác".
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là một chính sách lớn đối
với toàn dân tộc, đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc;
ta còn phải đoàn kết để xây đựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta phải đoàn kết với họ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu yêu cầu
của đoàn kết là phải đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ. Đoàn kết giữa Chính phủ và
nhân dân. Đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân với nhau. Đoàn kết giữa đồng bào
toàn quốc từ Bắc tới Nam. Nói rộng hơn nữa: đoàn kết giữa nhân dân ta và nhân
dân các nước bạn. Đoàn kết chặt chẽ lực lượng trong nước với ngoài nước... Nói
chuyện với đại diện Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tĩnh, ngày 15/6/1957, Người khẳng định
"Đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất. Phải đoàn kết giữa lương và
giáo, giữa quân và dân, giữa Bắc và Nam"... Trong thư gửi Đại hội các dân
tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku, ngày 19-4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
"Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chúng của chúng ta. Vậy
nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để
ủng hộ Chính phủ ta". Đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi không những là yêu cầu
tất yếu của cách mạng Việt Nam mà còn là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
ta, một tầm nhìn về tương lai của dân tộc. Ngay từ năm 1946, trong thư gửi đồng
bào Nam Bộ, Người có những lời khuyên rất thấm thía: "Tôi khuyên đồng bào đoàn
kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài
đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế
khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải
khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay
nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình
thân ái mà cảm hoá họ như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai
chắc chắn sẽ vẻ vang".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi một sự
đoàn kết thật sự có chiều sâu, có hiệu quả, "không phải đoàn kết ngoài
miệng, mà đoàn kết bằng việc làm, đoàn kết bằng tinh thần, đoàn kết thực
sự". Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Hà Tây ngày 10-2-1967, Người
nhắc nhở cán bộ "từ tỉnh đến huyện, đến xã phải đoàn kết, đoàn kết thực
sự, làm sao tự mình nêu gương và giáo dục cho đảng viên, đoàn viên, cán bộ giữ
gìn, phát triển đạo đức cách mạng, làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân
chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm". Người giải
thích: "Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường
cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học
những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường
thân ái, vì nước, vì dân". Về mối quan hệ giữa phê bình, tự phê bình và đoàn
kết, Người giải thích: Phê bình, tự phê bình tốt nghĩa là xuất phát từ đoàn kết
mà phê bình và tự phê bình, phê bình và tự phê bình để đi đến đoàn kết hơn nữa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh ý
nghĩa, tác đụng to lớn của đoàn kết. Người nhiều lần khẳng định "Đoàn kết
là lực lượng mạnh nhất của chúng ta". "Đoàn kết là một lực lượng vô địch".
"Đoàn kết là sức mạnh". Đoàn kết là sức mạnh vô địch của chúng
ta". "Đoàn kết là lực lượng tất thắng". Thật là một chân lý giản
dị và sáng tỏ.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết, đại đoàn
kết là nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam, giúp dân tộc ta "thành
công, đại thành công" trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong lời kêu
gọi nhân dịp kỷ niệm cách mạng tháng Tám và ngày Độc lập năm 1951, Người nhấn
mạnh: "Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân ta là một lực lượng vô
cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng
quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà
chúng ta cách mạng thành công, giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức
kháng chiến của ta ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết
chịu đựng muôn nỗi khó khăn thiếu thốn, đói khổ quyết một lòng đánh tan quân
giặc cướp nước. Nhờ lực lượng ấy mà với gậy tầm vông và súng hoả mai lúc đầu,
chúng ta liên tiếp thắng địch". Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi
tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá I, ngày
18-12-1959, Người khẳng định: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc bị
áp bức đã đánh bại cuộc xâm lược của một đế quốc hùng mạnh, đã giành lại độc
lập cho dân tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày, đưa lại quyền dân chủ thực sự
cho nhân dân. Thắng lợi đó là do lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu tranh
anh dũng của quân và dân ta, do toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận
Dân tộc thống nhất và chính quyền nhân dân ta dựa trên nền tảng liên minh công
nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng...". Trong bài nói
tại Hội những người Ấn nghiên cứu các vấn đề quốc tế, ngày 7-2-1958, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu rõ: "Nhờ đại đoàn kết mà trong bao nhiêu thế kỷ, nhân dân
Việt Nam đã bảo vệ được độc lập, tự đo của mình. Nhờ đại đoàn kết mà nhân dân
Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm cách mạng Tháng Tám thành công
và đã kháng chiến đến thắng lợi. Nhờ đại đoàn kết toàn dân mà nước Việt Nam
chúng tôi nhất định sẽ thống nhất".
Nhờ có chiến lược đại đoàn kết đúng
đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng nước ta hơn 70 năm qua đã giành
được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, phát huy được sức mạnh của toàn dân
tộc đánh thắng được hai đế quốc to là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cả nước hoà
bình, thống nhất đi lên CNXH, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đưa Nghị quyết Đại hội lần
thứ IX của Đảng và Nghị quyết TW7 (khóa IX) về "phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh" vào cuộc sống, cần thực thi mạnh mẽ, có hiệu quả những chủ trương
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, xây dựng những định hướng
chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, phát huy mạnh mẽ vai trò
của chính quyền Nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Thứ ba, mở rộng và đa dạng hoá các
hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ tư, tăng cường công tác chính
trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy
mạnh các phong trào thi đua yêu nước.
Thứ năm, xây đựng tổ chức Đảng trong
sạch, vững mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thực sự là hạt
nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tư
tưởng Đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
Vũ
Thị Kim Xuyến
(ĐCSVN)- Giữa thế kỷ XIX, nhân dân
Việt Nam điêu đứng trong cảnh ngộ mất nước, bị xóa tên trên bản đồ thế giới, bị
áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị đầu độc về văn hóa, bị đày đọa
trong đói rách và bệnh tật. Toàn xã hội Việt Nam đặc biệt là tầng lớp lao động
lâm vào số phận bi thảm, quyền sống và mọi quyền con người bị chà đạp.
Khát vọng giải phóng được ấp ủ từ lâu trong
dân tộc Việt Nam càng thêm nung nấu và trở thành vấn đề sống còn. Vào những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những người Việt Nam nhiệt thành yêu nước, đã
từng ao ước hướng vào các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân và
chống thuế ở Trung kỳ…, đã từng hy vọng vào ngọn cờ của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh… nhưng đau xót thay mọi sự nỗ lực gắng gỏi của các thế hệ tiền bối đều không
đi đến kết quả. Đối với Hồ Chí Minh, mặc dù khi đó chưa lý giải được thấu đáo
nguyên nhân thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX song
Người đã nhận thấy ở các nhà ái quốc tiền bối còn có những lầm lẫn, mơ hồ trong
việc phân biệt bạn thù, trong việc tập hợp lực lượng, xây dựng phong trào cách
mạng ... Hồ Chí Minh trân trọng mọi công phu tìm kiếm, khâm phục tâm huyết của
các bậc tiền bối, nhưng thấy rõ tất cả các con đường đã được chọn đều không có
hiệu quả. Vì vậy, Người quyết định xuất dương để xem xét thế giới, quan sát
cuộc sống của các dân tộc, nghiên cứu cách làm của các nước, cốt tìm ra con đường
cho dân tộc Việt Nam tự giải phóng mình. Những năm tháng bôn ba ở nước ngoài để
tìm chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã thâm nhập sâu sắc đời sống và phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước TBCN, của các dân tộc bị áp bức bóc
lột ở thuộc địa. Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn đã giúp Người nhận thức
một sự thật: giới cần lao và các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại,
song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi, bởi vì các dân tộc bị áp bức
chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở
các nước “chính quốc”, chưa có tổ chức.
Từ nhận thức khoa học này, Hồ Chí
Minh đã làm tất cả từ tuyên truyền, thức tỉnh, đến vận động, đến tổ chức dể làm
xây dựng một chiến lược đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, chống chủ nghĩa
đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
Trên con đường hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh tiếp tục tìm tòi, kiểm nghiệm
những cơ sở lý luận thực tiễn trên một quy mô, phạm vi rộng lớn để dần dần xây
dựng những luận điểm đầu tiên về đại đoàn kết đó là những luận điểm về sự cần
thiết phải kết hợp cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc, về sự cần
thiết phải có một chính đảng của giai cấp công nhân để đoàn kết các lực lượng
yêu nước, cách mạng ở thuộc địa và cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa thực dân;
về vai trò của liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Những luận điểm
này được phản ánh trong các bài viết của Người đăng trên Tạp chí Cộng sản (bản
tiếng Pháp) số 18, 19 năm 1921, trên các báo “ Le Pari” (Người cùng khổ),
“Luymanitê” (Nhân đạo), tạp chí “Thư tín quốc tế”, “Đời sống công nhân”…, trong
các bài tham luận của Người tại Đại hội Nông dân quốc tế (1923), (trong thư gửi
các bạn cùng hoạt động ở Pháp) Người viết: “Đối với tôi câu trả lời được rõ
ràng: trở về nước đi vào quần chúng thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn
luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”, Đại hội Quốc tế Cộng sản
lần thứ V (1924) Người đã tuyên bố rõ: “lao động tất cả các nước! đoàn kết
lại”.
Nhận thức được sức mạnh đoàn kết,
vai trò của đại đoàn kết trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã
nhanh chóng hình thành một mặt trận đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân lao động ở
các nước có bọn thực dân đi xâm lược với nhân dân các dân tộc bị xâm lược, Người
coi khối liên minh đó là một trong những nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng.
Các nhà yêu nước tiền bối chưa thấy
được số phận của các dân tộc bị áp bức khác cũng đau khổ, tủi nhục như nhau, có
chung một nguyện vọng là phấn đấu cho tự do, độc lập của dân tộc mình. Hồ Chí
Minh từ những năm 20 đã thấy rõ điều đó và Người đã nỗ lực phấn đấu để góp phần
tích cực xây dựng mặt trận đoàn kết chiến đấu giữa các dân tộc bị áp bức để
chông kẻ thù chung. Hội Liên hiệp thuộc địa (ở Pháp), “Hội các dân tộc bị áp
bức” của các nước châu á, mà chính Người đã tham gia sáng lập. Trước Hồ Chí
Minh trên thế giới chưa bao giờ hình thành một khối liên minh ấy.
Hầu hết các nhà yêu nước tiền bối đều
dựa vào tầng lớp trên làm nòng cốt cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, coi quần
chúng nhân dân chỉ đóng vai trò thứ yếu. Hồ Chí Minh trong khi lấy “công nông
là gốc của cách mạng” lại vẫn sẵn sàng mở rộng cửa đón tiếp những người thuộc
tầng lớp trên có tinh thần yêu nước vào Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế
quốc vì độc lập tự do của tổ quốc. Mặt trận Việt minh (1941), Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam sau này chính là biểu hiện của tinh thần ấy.
Là người quán triệt và vận dụng một
cách sáng tạo những luận điểm của Mac-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ
Chí Minh đã góp phần làm phong phú những luận điểm ấy trong thời đại mới. Người
đã rút ra một kết luận quan trọng là: “trong điều kiện thuận lợi cho phong trào
cách mạng của thời đại ngày nay, bất cứ một dân tộc nào dù nhỏ, nhưng nếu đoàn
kết chặt chẽ và kiên quyết chiến đấu theo đường lối chính trị và quân sự đúng đắn
lại được sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe XHCN và của nhân dân cách mạng thế
giới thì có thể đánh thắng bất cứ bọn đế quốc nào, kể cả tên đầu sỏ là đế quốc
Mỹ ”.
Kết luận nổi tiếng ấy của Người được
nêu ra trong lúc đế quốc Mỹ đang ào ạt đưa hàng chục vạn quân và hàng triệu tấn
vũ khí vào miền Nam Việt Nam, loài người đang hồi hộp lo lắng cho số phận của
dân tộc Việt Nam trước sự xâm lược của tên đế quốc đầu sỏ, lại càng có ý nghĩa
trọng đại. Nó chẳng những củng cố niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đấu tranh
cách mạng của các dân tộc bị bọn đế quốc xâm lược, mà còn nêu lên một chân lý
có tính thời đại về sự chiến đấu để bảo vệ thiêng liêng quyền dân tộc mình.
Tự nhận lấy trách nhiệm và sứ mệnh
lịch sử trước đất nước, dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh vô cùng thấm thía giá
trị của đại đoàn kết. Sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước năm 1941 trở về Cao
Bằng, Hồ Chí Minh trong tay không có vũ khí, không có quân đội nhưng Người đã
một cẩm nang thần kỳ, cống hiến cho dân tộc. “Dân ta muốn sống chỉ có một đường
là đoàn kết lại để đánh Tây, đuổi Nhật” và truyền cẩm nang đó qua một trong nhiều
phương tiện như báo Việt Nam độc lập số 102. Ngay từ số báo đầu tiên Bác đã
khẳng định rõ:
“Mau mau đoàn kết cùng nhau
Để đánh Tây, đánh Nhật, để lo tự cường”.
Một lời kêu gọi thiết tha như thấy
từ sâu thẳm đáy lòng yêu nước của Người.
Đoàn kết lại đồng bào ta ơi!
Trước thời cứu nước sau thời cứu
dân.
Không một số báo Việt Nam độc lập
nào trong những năm 1941- 1942 lại không có những lời kêu gọi, căn dặn, yêu
cầu, mong mỏi, hướng dẫn, vận động toàn dân đoàn kết xung quanh Hội Việt Minh. Đoàn
kết trong một tổ chức, trong một mặt trận đó là vũ khí mạnh nhất, không vũ khí
nào, không ai thắng nổi. Không chỉ có kêu gọi, mà Hồ Chí Minh còn viết hàng
loạt thơ ca như: Hòn đá, Dân cày, Công nhân, Phụ nữ, Ca binh lính, Ca sợi chỉ,
Con Cáo và tổ Ong v.v… với tinh thần cốt lõi là kêu gọi toàn dân ta:
“Đoàn kết vững bền như khối sắt
Để cùng nhau cứu nước Nam ta”.
Với tư tưởng đó của Hồ Chí Minh được
thể hiện rất đậm nét trong bài diễn ca Lịch sử nước ta, với hơn 200 câu lục bát
truyền thống của dân tộc. Hồ Chí Minh đã tái hiện lại dòng lịch sử dân tộc, làm
sống lại trong lòng người dân đất Việt những mốc son chói lọi; nêu cao những
chiến công hiển hách của cha anh, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, đồng thời động
viên lớp lớp cháu con noi gương các bậc tiền bối đứng lên đánh đuổi giặc thù:
…Bất kỳ nam nữ nghèo giầu
Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn
Người giúp sức, kẻ giúp tiền
Cùng nhau giành lấy chủ quyền của
ta…
Hồ Chí Minh còn dùng những hình ảnh
sinh động có thực, với lý lẽ sắc bén, phân tích những đúng, sai, lợi, hại nhằm
tuyên truyền giáo dục, thuyết phục lôi cuốn tập hợp quần chúng cách mạng lên đường
tranh đấu. Vì thế, Hồ Chí Minh luôn nghĩ rằng: trong bầu trời không có gì quý
bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân nên toàn dân ta đồng tình đồng sức, đồng lòng sẽ tạo nên sức mạnh kỳ diệu
và hùng hậu, thành phong trào cách mạng sôi sục để đánh đuổi Nhật - Pháp cứu nước,
cứu nhà. Sức mạnh đó đã được Hồ Chí Minh khẳng định trong bài thơ Nhóm lửa viết
năm 1941. Và đúng như lời tiên đoán của Người chỉ 4 năm sau, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, toàn dân ta đã tập hợp thành lực lượng to lớn trong Mặt trận Việt
Minh giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc. Bằng tinh thần quyết chiến, quyết
tháng, vượt qua bao khó khăn, thử thách, nhân dân ta đã làm nên cuộc Cách mạng
tháng Tám long trời lở đất, đưa dân tộc ta từ kiếp lầm than nô lệ sang kỷ
nguyên độc lập tự do và CNXH. Đầu năm 1951, phát biểu tại Đại hội thống nhất
Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành
công.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh đoàn kết
càng rộng rãi, đoàn kết càng chặt chẽ thì thắng lợi càng to, thành tích càng
lớn. Lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam nói riêng chứng minh sự khẳng định này của Người là hoàn toàn
đúng.
Cách mạng tháng Tám thành công, 9 năm
kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hơn 20 năm chống Mỹ cứu nước toàn thắng, góp
phần cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở á, Phi, Mỹ Latinh. Tất cả
những chiến công lịch sử phi thường ấy của nhân dân ta không thể không kể đến
công lao vĩ đại của Hồ Chí Minh- Người anh dùng kiệt xuất của sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Bởi lẽ trong suốt quá trình đấu tranh, nhất là vào những lúc
diễn ra bước ngoặt của cách mạng thì tầm nhìn xa, trông rộng của Hồ Chí Minh; tư
tưởng bất tử: “Không có gì qúy hơn độc lập tự do” của Người; những chủ trương
quyết đoán và sáng suốt của Người; tài năng động viên và tổ chức tuyệt vời của
Người; phương pháp cách mạng vừa sắc bén vừa mềm dẻo, linh hoạt với tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc của Người, thực sự là những nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã từng là hạt nhân đoàn
kết của các dân tộc bị áp bức, đã thúc đẩy cuộc giải phóng dân tộc trong thế kỷ
XX giành thắng lợi, đã từng mơ ước “Bốn phương vô sản đều là anh em”. Tinh thần
đoàn kết đó không bó hẹp trong một nước Việt Nam. Người lấy mục tiêu hoà bình,
tự do, bình đẳng, bác ái, ấm no, hạnh phúc cho tất cả những Người lao động và
tiến bộ thuộc mọi giống nòi, không phân biệt màu da, chủng tộc làm điểm tương đồng
để thực hiện sự liên minh thống nhất đoàn kết quốc tế. Người đã rút ra bài học
lớn: “đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đoàn kết quốc tế để
thế giới ủng hộ, giúp đỡ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định thắng
lợi của cách mạng”. Và Người luôn luôn khẳng định: “lúc nào dân ta đoàn kết
muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn
kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng Người đã để lại
bản Di chúc cho toàn Đảng, toàn dân ta. Người nhấn mạnh về đoàn kết trong Đảng,
đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Những dòng cuối cùng của Di chúc Người
viết: “điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn
đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Đó là những bài học quý báu mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo thành công mang ý nghĩa
thực tiễn để góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc
Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bó đuốc soi đường, dẫn lối
cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ miền Nam đến miền Bắc, từ miền ngược đến
miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị, từ trong nước đến nước ngoài tiến lên
giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt với đại thắng mùa xuân
1975 đã mở ra một kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất và tiến lên CNXH. Ba mươi
năm đã trôi qua kể từ thắng lợi vẻ vang đó, đất nước Việt Nam độc lập thống
nhất đã tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử, giành những thành tựu
to lớn trong công cuộc đổi mới. Ngày nay, tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đang vẫy gọi chúng ta tiếp tục vững bước tiến lên để thực hiện bằng được
“mục tiêu chung là củng cố tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”
mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương VII khoá IX đã chỉ rõ.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh
GS. Văn Tạo
Tư
tưởng và hành động của Hồ Chí Minh luôn hướng tới xây dựng khối đại đoàn kết để
tạo thành sức mạnh vô địch, giành độc lập dân tộc, giữ vững tự do dân chủ, kiến
thiết nước nhà. Người còn chỉ ra phương châm là đoàn kết phải chân thành, chặt
chẽ, thống nhất và để đi đến đoàn kết yêu cầu phải thực hành dân chủ rộng rãi,
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình.
oàn
kết là một nhân tố quan trọng, một trong "ba phép quý" (Chính quyền,
Quân đội, Mặt trận) đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Đoàn kết đó vừa bắt nguồn từ
truyền thống đoàn kết dựng nước, giữ nước của dân tộc, vừa từ khoa học đoàn kết
cách mạng của giai cấp công nhân.
Ông
cha ta xưa do phải dựng nước, giữ nước trong muôn vàn gian khó chống thiên tai,
địch họa cho nên phải lấy "Kết đoàn làm sức mạnh". Hai Bà Trưng đã có
sức mạnh của cả 65 thành nổi dậy. Trần Hưng Đạo thì quân thần, binh sĩ:
"Một lời" "sát Thát" truyền ghi. ("sát Thát" là
"giết giặc Nguyên Mông") Lời thề sông Hóa, chữ đề cánh tay". Lê
Lợi - Nguyễn Trãi với chiến lược "Tâm công" (tức "Đánh vào lòng
người"), khiến nhân tâm quy tụ: "Trăm vạn người chỉ một
lòng...". Đến thời cận đại, Phan Bội Châu kêu gọi "Mười giới đồng
tâm" cứu nước, nhưng sự nghiệp chưa thành vì thiếu sức mạnh thời đại - sức
mạnh của giai cấp công nhân.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc ra đời lúc này đã kế thừa được truyền
thống đoàn kết của ông cha trên cơ sở lý luận khoa học của giai cấp công
nhân-lý luận Mác - Lê-nin nhằm đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù. Tư tưởng đoàn kết của
Người phát huy tác dụng tích cực trong suốt chiều dài lịch sử hơn nửa thế kỷ
qua, từ khi Đảng ra đời đến nay, góp phần đem lại những thành công to lớn cho
cách mạng
Trong
Diễn văn nhân kỷ niệm lần thứ 109 Ngày
sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và 30 năm thực hiện Di chúc của Người, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, đã nêu cao hiệu quả
của tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cách mạng dân tộc và trong
quan hệ quốc tế: Người đã xây dựng nên "Một mặt trận dân tộc thống nhất
tiêu biểu cho đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh công nhân-nông dân-trí thức
làm nền tảng, không ngừng củng cố và mở rộng. Một tinh thần đoàn kết quốc tế
trong sáng vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong tâm
trí các giai cấp cần lao bị áp bức và nhân loại tiến bộ "Việt Nam,
Hồ Chí Minh" đã trở thành biểu tượng của niềm tin, ý chí, lương tâm và
phẩm giá".
Tư tưởng "Đoàn kết"
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi sâu vào tâm trí đảng viên và đại chúng nhân dân
bởi vì nó là biểu hiện "cái tâm trong sáng và nhiệt thành" của một
chiến sĩ yêu nước và cách mạng, luôn lấy đoàn kết làm chiến lược hàng đầu của
sự nghiệp dựng nước và giữ nước".
Đoàn kết vì sự nghiệp yêu nước và cách mạng
Trong
Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là nhờ đoàn kết chặt chẽ mà từ ngày thành lập
đến nay Đảng đã "tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác".
Trong thời kỳ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã "Kêu
gọi đồng bào đoàn kết. Vì có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành
được độc lập, tự do". Ngày Quốc tế Lao động 1-5-1946, Người nói: Đây chẳng
những là ngày tết lao động mà còn là ngày nhân dân đoàn kết: Đoàn kết để giữ
vững tự do dân chủ. Đoàn kết để kiến thiết nước nhà. Đoàn kết để xây dựng một
đời sống mới. Trong sản xuất, Người cổ vũ đoàn kết để chinh phục thiên nhiên:
Toàn dân đoàn kết một lòng. Đập đá thì núi vỡ, đào sông thì nước về. Trong đấu
tranh thống nhất Người nêu cao ý nghĩa của đoàn kết và tin tưởng ở tương lai
tất thắng: Đoàn kết là một lực lượng vô địch: Lực lượng đoàn kết đã giúp Cách
mạng Tháng Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi.
Lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân từ bắc chí nam đấu tranh để thực hiện
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước.
Đoàn kết theo đường lối giai cấp - Lấy đoàn kết trong Đảng là hạt nhân cho đoàn
kết dân tộc
Từ
khi ra đi tìm đường cứu nước, đến khi gặp được chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Người đã
thấy đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế vô sản và đoàn kết với các dân tộc bị
áp bức trên thế giới luôn đóng vai trò chiến lược. Tư tưởng đó được biểu hiện ở
khẩu hiệu của C.Mác và Ph.Ăng-ghen là: "Vô sản toàn thế giới đoàn kết
lại!". Lê-nin đã phát triển lý luận Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa
thành: "Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!".
Đoàn kết của các Đảng vô sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam là xuất phát
từ thực tiễn đấu tranh của giai cấp vô sản - một giai cấp lấy sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc làm hàng đầu - sự nghiệp của những người tay
không tấc sắt, không có gì khác ngoài sức lao động để bán, lại bị rên xiết
trong xiềng gông nô lệ, cho nên đã đứng lên chiến đấu để: Được thì thế giới vui
chung. Mất thì chỉ mất cái gông trên đầu. Do vậy mà đoàn kết đã trở thành sức
mạnh vô địch.
Tư tưởng đoàn kết quốc tế của lý luận Mác - Lê-nin đã củng cố và làm phong phú
thêm nội dung tư tưởng đoàn kết dân tộc vốn đã có trong tư duy của Người, cho
nên trong xây dựng Đảng, Người đã có những cống hiến lớn lao:
Người đã sáng tạo trong xây dựng Đảng: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp phong
trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản
Đông Dương... Trên tinh thần Đoàn kết giai cấp - Đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh
đã triệu tập Hội nghị hợp nhất ba đảng (từ 3 đến 7-2-1930) thành một đảng duy
nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đặt nền móng cho tư tưởng đoàn kết của
Đảng ngay từ ngày đầu thành lập, tạo tiền đề cho mọi thành công "đoàn kết
chiến đấu" của Đảng sau này... Trong xây dựng Đảng, Người đã từng huấn
thị: Các đồng chí ta, tuy có khi khác nhau về chủng tộc hay khác nhau về nguồn
gốc giai cấp, nhưng là người cùng chủ nghĩa, cùng mục đích, cùng sống, cùng
chết, chung sướng, chung khổ, cho nên phải thật thà đoàn kết.
Trong cuộc chỉnh Đảng thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói: Ngày nay nhiệm vụ của Đảng ta là đoàn kết và
lãnh đạo giai cấp cùng nhân dân kháng chiến, kiến quốc... là một đảng lãnh đạo,
Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu. Toàn Đảng phải tư tưởng nhất
trí, hành động nhất trí, đoàn kết nhất trí mới làm tròn được nhiệm vụ của
Đảng... Chỉnh Đảng thành công thì nó sẽ khuếch trương những thắng lợi về quân
sự, chính trị, kinh tế, v.v.
Tháng 3-1955, trước nhiệm vụ mới rất nặng nề ở cả hai miền nam bắc, Hồ Chủ tịch
đã quan tâm đến đoàn kết trong Đảng để khắc phục khó khăn giành thắng lợi mới.
Người nói: Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất
là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo. Và nhấn mạnh: Đảng ta đoàn
kết và vững chắc, dân ta đoàn kết và hăng hái, quân đội ta hùng mạnh, chính
sách ta đúng đắn... chúng ta nhất định thành công. Trong Di chúc, Người còn
nhấn mạnh: Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn
kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Và nhắc nhở: Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Sức mạnh đoàn kết của Đảng được
nhân lên gấp bội khi Đảng ta đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo được tốt khối đoàn
kết toàn dân. Mặt trận dân tộc thống nhất được Đảng xây dựng qua các thời kỳ
ngày càng hoàn thiện và có hiệu lực: Từ: Đồng minh phản đế Đông Dương năm
1930-1931; Mặt trận Dân chủ thời kỳ 1936-1939; Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh (Việt Minh) thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám (1941-1945), Mặt trận
Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) thời kỳ kháng chiến chống thực dân
Pháp; đến Mặt trận giải phóng miền nam, Mặt trận Tổ quốc của cả nước thời kỳ
1954-1975 và Mặt trận Tổ quốc hiện nay. Đảng có đoàn kết nhất trí mới có thể là
lực lượng lãnh đạo đáng tin cậy, là chỗ dựa của Mặt trận dân tộc thống nhất,
nhờ vậy mà Mặt trận do Đảng xây dựng mới phát huy được tác dụng.
Góp
phần tích cực vào đoàn kết quốc tế vô sản
Từ
Đại hội V của Quốc tế cộng sản đến các đại hội quốc tế khác, Người đã góp phần
tích cực vào đoàn kết quốc tế vô sản. Khi phong trào cộng sản thế giới xảy ra
sự bất hòa, Người tự thấy đau lòng và bộc lộ: Về phong trào cộng sản thế giới -
Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy
nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em! Người nêu cao trách nhiệm
của Đảng trong sự nghiệp cao cả này: Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động,
góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có
tình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt một niềm tin vào sự khôi phục lại được tình
đoàn kết đó: Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ
phải đoàn kết lại.
Phương châm và biện pháp, hiệu quả của
đoàn kết
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra
tư tưởng đoàn kết, mà còn chỉ ra phương châm, đề ra biện pháp để xây dựng và
củng cố đoàn kết;
Phương
châm là đoàn kết phải chân thành, như năm 1945 Người nêu ra khái niệm
"chân thành Đoàn kết". Trong Di chúc, Người nhấn mạnh phải Đoàn kết
chặt chẽ, Đoàn kết nhất trí, Đoàn kết và thống nhất. Muốn đoàn kết phải khắc
phục chủ nghĩa cá nhân, chia rẽ bè phái, địa phương, cục bộ, chống tham ô, lãng
phí, quan liêu, phải cùng nhau thực hiện "Cần kiệm liêm chính chí công vô
tư" như Người dạy.
Về
biện pháp - Để đi đến đoàn kết, Người đặt lên hàng đầu yêu cầu: thực hành dân
chủ rộng rãi, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình.
Trong Di chúc Người viết: Trong
Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất
của Đảng. Đoàn kết phải với tinh thần thương yêu, khoan dung, độ lượng cho nên
về phương châm tự phê bình và phê bình, Người nhắc nhở: Phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau.
Hiệu
quả của đoàn kết: Nhờ đoàn kết theo tư tưởng của Người mà nhân dân liên tục
giành được thắng lợi như Người đã đúc kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công. Câu nói đó đã trở thành Chân lý. Nếu
các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn hóa thế giới thường để lại các danh
ngôn có giá trị sâu sắc muôn đời thì Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng dân tộc
Việt Nam,
danh nhân văn hóa thế giới cũng để lại nhiều danh ngôn. Trong đó, đi đôi với
danh ngôn: "Không có gì quý hơn độc lập tự do" là danh ngôn:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết".
Thành
công, thành công, đại thành công".
Hai
danh ngôn này đã đi vào lịch sử như một cống hiến vào văn hóa và văn minh nhân
loại, được nhiều nhà văn hóa, chính trị thế giới đánh giá cao.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
tôn giáo
TS. Lương Văn Tám
Ðoàn
kết lương, giáo, đoàn kết giữa những người theo đạo với những người không theo
đạo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau là một bộ phận cấu thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Quan điểm đoàn kết tôn giáo,
theo Hồ Chí Minh, trước hết phải lấy mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội làm điểm tương đồng, dùng cái tương đồng để khắc phục sự dị biệt. Giải
phóng dân tộc ở nước ta là mục tiêu trước nhất, là nền tảng cho sự giải phóng
giai cấp, là điều kiện để có độc lập, tự do cho các tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: "Nước không độc lập thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta
phải làm cho nước độc lập đã". Độc lập rồi phải quan tâm đến đời sống
người dân, vì "nước độc lập, mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì
độc lập chẳng nghĩa lý gì". Sự đoàn kết và phát triển theo xu hướng tích
cực, tiến bộ của tôn giáo sẽ góp phần giành và giữ vững nền độc lập cho Tổ
quốc, nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Phải đoàn kết chặt chẽ giữa
đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận,
ấm no, xây dựng Tổ quốc". Lời kêu gọi của Người đã tạo nên sự nhất trí cao
của toàn dân trong đó có đồng bào các tôn giáo với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước. Đồng thời đây cũng là cơ sở vững chắc để bác bỏ mọi âm mưu, thủ đoạn của
kẻ thù lợi dụng tôn giáo, hòng chia rẽ, phá hoại chính sách tôn giáo và dân
tộc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân của Đảng ta.
Để đoàn kết tôn giáo, Người còn
chỉ rõ là phải hết lòng chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các
tôn giáo, phải đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, không tín ngưỡng, quyền sinh
hoạt tôn giáo theo đúng pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần không thể thiếu được của một bộ phận nhân
dân, là lĩnh vực thiêng liêng của mỗi người mà không ai có thể xâm phạm được;
vì vậy, thừa nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là tôn trọng nhân dân, tôn
trọng tự do, dân chủ của mọi người.
Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của
Hồ Chí Minh hơn 70 năm qua đã được Đảng ta kế thừa và phát triển cho phù hợp
với tình hình mới. Nghị quyết 24-NQ/TW Bộ Chính trị (khóa VII) ngày 16-10-1990
đã khẳng định "Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện đoàn kết lương, giáo, đoàn kết
toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần khắc phục nhận thức thiển cận đối với
tôn giáo và thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử đối với đồng bào có
đạo". Và gần đây nhất trong Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ bảy (khóa IX)
của Đảng ta đã chỉ rõ: "Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại
đoàn kết dân tộc. Ðoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng
bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo…Nghiêm cấm sự phân biệt đối
xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và
chính sách của nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối,
xâm phạm an ninh quốc gia".
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Đảng ta về tôn giáo rất rõ ràng, thế nhưng các thế lực phản động
trong và ngoài nước luôn có ý đồ lợi dụng và xuyên tạc chính sách tôn giáo để
chia rẽ dân tộc, xâm phạm chủ quyền đất nước như gần đây nhất ngày 17-9-2003,
Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế của Quốc hội Mỹ đã có khuyến nghị sai trái về vấn
đề tôn giáo ở Việt Nam, kêu gọi Ngoại trưởng Mỹ C.Powell xếp Việt Nam vào diện
quốc gia "đặc biệt lo ngại về tự do tôn giáo". Rõ ràng đây là điều
phi lý và sai sự thật. Chúng ta, những người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, có truyền
thống đoàn kết, truyền thống khoan dung tôn giáo quyết không thể chấp nhận
được.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo
Nguyễn
Xuyến
Nước ta là nước đa tôn giáo, song
có hai tôn giáo mà số tín đồ đông nhất là Phật giáo và Công giáo.
Là một người cộng sản theo chủ
nghĩa Mác - Lê nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ phản đối, bài xích các
tôn giáo. Người luôn luôn tỏ thái độ tôn trọng và đề cao vai trò của những vị đã
sáng lập ra các tôn giáo. Người nói: "Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và
chúa Giê-su đều giống nhau. Thích Ca và Giê- su đều muốn mọi người có cơm ăn,
áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng"
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là mẫu
mực của sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng. Người
không hề có sự phân biệt đối xử giữa tôn giáo này và tôn giáo khác, giữa người
có đạo và người không có đạo. Tư tưởng đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc,
không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo là tư tưởng nhất quán và trở thành chính
sách lớn của Bác.
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam độc lập do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo
soạn thảo, đã khẳng định quyền tự do tín ngưỡng là quyền tự nhiên của người
Việt Nam. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện vi phạm quyền tự do tín ngưỡng,
quan tâm giáo dục cán bộ chính quyền, quân đội và các đoàn thể phải tôn trọng
tự do tín ngưỡng, bảo vệ đền chùa, nhà thờ các tôn giáo.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào
lương hay giáo đều là người Việt Nam, đều là người lao động và sự nghiệp cách
mạng là việc lớn, 1à sự nghiệp chung không phải chỉ của một hai người. Người
kêu gọi: "Lương giáo đoàn kết, toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng, nhân
dân ta nhất định sẽ thắng lợi trong công cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình,
thống nhất Tổ quốc, và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập
dân chủ và giàu mạnh".
Người dạy: "Ngày nay, đồng bào
cả nước, giáo và lương, đều đoàn kết chặt chẽ, nhất tâm nhất trí như con một
nhà, cương quyết giữ vững tự do độc lập..."
Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh rõ ràng nổi lên quan điểm bỏ qua những dị biệt nhỏ để giữ lấy
cái tương đồng lớn; vượt qua những khác biệt về đức tin, lối sống… để giữ lấy
tình đoàn kết dân tộc, giữ lấy mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc.
Giữa tháng 10 năm 1945, vào ngày lễ
hành nguyện Phật giáo, trong một bữa tiệc chay được tổ chức tại chùa Quán Sứ
(Hà Nội), có tín hữu hai tôn giáo (Công giáo và Phật giáo) tham dự, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: "Mặc dầu hai tôn giáo có hai giáo lý khác nhau nhưng tôn
giáo nào cũng từ bi nhân đạo mà ra, thì không lý gì lúc này cùng là con dân
Việt Nam, lại không thể có sự đoàn kết giữa hai tôn giáo được".
Trong bức thư gửi các giám mục và đồng
bào công giáo Vinh, Hà Tĩnh, Quảng Bình, ngày 14-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: "Đức Giêsu hy sinh vì muốn loài người được tự do hạnh phúc, đồng bào
ta cả lương cả giáo cũng vì tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hy sinh phấn đấu”(7)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
tôn giáo không chỉ xuất phát từ thực tế đất nước, truyền thống đoàn kết của dân
tộc, từ tinh hoa văn hóa dân tộc, từ lý luận Mác - Lê nin xem cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng... mà còn từ tình cảm yêu thương, lòng nhân ái của Người
với đồng bào các tôn giáo. Tấm lòng ấy là bản sắc Hồ Chi Minh luôn biết hòa vào
quần chúng, hiểu họ yêu gì, ghét gì và mong muốn điều gì.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc có một ý nghĩa rất to lớn. Nó đã
trở thành cơ sở cho việc hình thành chính sách tôn giáo của Đảng và Chính phủ
ta trong các giai đoạn cách mạng nhằm phát huy được mặt tích cực của đạo đức
tôn giáo trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Kể từ luận cương cách mạng tư sản
dân quyền năm 1930 đến Nghị quyết Đại hội VII của Đảng năm 1996, từ Nghị quyết đầu
tiên của Chính phủ ngày 3-9-1945 đến Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19-4-1999
và trong các bản Hiến pháp của nước ta, Đảng và Nhà nước đều nhất quán tư tưởng
Hồ Chí Minh về quyền tự do tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo.
Đại đoàn kết toàn dân - nhu cầu và yêu cầu tất yếu
trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo, phát triển đất nước
ThS. Bùi Thị Như Ngọc
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Ðảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc xây dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn
kết toàn dân. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt
thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo đã tập hợp trong Mặt trận Dân tộc thống
nhất Việt Nam, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để làm nên thắng lợi lịch
sử Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Những thắng lợi đó mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho đất nước.
Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đang tiếp tục phát huy
cao độ, trở thành động lực quan trọng đối với công cuộc đổi mới đất nước, giữ
gìn toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia. Nhu cầu và yêu cầu về đại đoàn kết
toàn dân càng trở nên cấp thiết khi vấn đề chủ quyền biển, đảo của nước ta trên
Biển Đông có những diễn biến phức tạp do Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan
HD-981 nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của chúng ta một
năm trước, hay thời gian gần đây tăng cường xây dựng đường băng dài khoảng
3.000m trên đá Chữ Thập, cải tạo, xây dựng công trình phá vỡ nguyên trạng tại
một số đảo, bãi đá trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam… Hành
động của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, vi phạm
luật pháp quốc tế và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đe
dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hợp
tác và phát triển ở khu vực và thế giới. Đồng thời, vấp phải sự phản ứng mạnh
mẽ của nước ta và dư luận thế giới.
Trước tình hình
đó, đại đoàn kết toàn dân đã trở thành “cái nôi” chung tập hợp những người Việt
Nam yêu nước. Đại đoàn kết toàn dân trong thời đại ngày nay là sự tiếp nối của
truyền thống ngàn đời “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá
rách”, “uống nước nhớ nguồn”… hướng tới mục tiêu chung cao cả thấm đẫm tinh
thần nhân văn, nhân bản, là bảo đảm những lợi ích chính đáng, tối cao của dân
tộc, lợi ích của nhân dân và quyền thiêng liêng của con người. Tình yêu đất
nước gắn với ý thức bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được thể hiện rộng rãi,
mạnh mẽ và có sức lan tỏa lớn, được chuyển tải thông qua các phương tiện truyền
thông đại chúng, các trang mạng xã hội, qua chính những công việc thường ngày…
Đây là cuộc đấu tranh chính nghĩa. Chủ quyền biển, đảo của nước ta đã được minh
chứng bằng các tài liệu, chứng cứ lịch sử từ nhiều thế kỷ trước. Trải qua các
thời kỳ lịch sử, đến ngày nay, việc Trung Quốc công bố có chủ quyền đối với
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Do đó, việc
nhân dân Việt Nam tự nguyện, tự giác tập hợp nhau trong một khối thống nhất,
đồng thuận, kiên định đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia bằng con
đường hòa bình vừa là nhu cầu tự thân tất yếu ở người dân, đồng thời là yêu cầu
tất yếu của thời cuộc, bởi chúng ta có nghĩa vụ và trách nhiệm gìn giữ, bảo vệ
nền độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước mà biết bao thế hệ cha ông
đã phải hy sinh xương máu.
Đại
đoàn kết phải đồng thuận và tỉnh táo
Trong bối cảnh
Biển Đông đang có những diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến chủ quyền biển, đảo
nước ta, có thể thấy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân đang được huy động và củng
cố mạnh mẽ, dưới nhiều hình thức và phương cách đa dạng, cho thấy nội lực dân
tộc đang được hòa quyện trong dòng mạch yêu nước, được lan tỏa, phát triển về
cả bề rộng lẫn chiều sâu.
Tinh thần đại
đoàn kết toàn dân được thể hiện ở sự đồng thuận cao của Đảng, Nhà nước và nhân
dân Việt Nam trong cả chính trường lẫn đời sống thường nhật. Ngày 30-4-2015,
Việt Nam gửi công hàm tới tất cả phái đoàn thường trực các nước ở Liên hợp
quốc, bác bỏ yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, nhấn mạnh chúng ta
có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử không thể chối cãi để khẳng định
chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình ở Biển Đông, phù hợp với
luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982
(UNCLOS). Hành động này cho thấy sự kiên quyết của Đảng, Nhà nước ta trong việc
bảo vệ chủ quyền biển, đảo đất nước và nhận được sự hưởng ứng của nhân dân ta
cũng như bạn bè quốc tế. Đại đoàn kết toàn dân cũng được thể hiện trong những
cuộc biểu tình hòa bình trong cộng đồng người Việt trong và ngoài nước phản đối
Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trên vùng biển nước ta, thể hiện qua các
phong trào, cuộc vận động mạnh mẽ: “Tất cả vì biển đảo quê hương”, “Hướng về
Biển Đông thân yêu”, “Vì Trường Sa thân yêu”… Trên các trang mạng xã hội, rực
màu cờ đỏ sao vàng của Việt Nam được các thành viên mạng đưa lên; những bài
viết, hình ảnh, videoclip… thể hiện tình yêu đất nước, biển, đảo quê hương trào
dâng thành những luồng nội lực mạnh mẽ, gắn kết trong tình yêu Tổ quốc, ý thức
bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của đất nước.
Đảng, Nhà nước
ta xác định đấu tranh hòa bình để bảo vệ chủ quyền biển đảo bằng con đường
ngoại giao, khẳng định ý chí quyết tâm và có các biện pháp giữ vững ổn định môi
trường để các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm làm ăn, kêu gọi người dân tỉnh
táo, kiềm chế, tránh bị kẻ xấu lợi dụng, triển khai thực hiện đồng bộ các giải
pháp, kiên quyết không để xảy ra biểu tình trái pháp luật và xử lý nghiêm khắc
những người có hành vi tuyên truyền kích động… Những chủ trương, biện pháp này
nhận được sự đồng tình, hưởng ứng trong cả nhận thức lẫn hành động của nhân dân
ta là minh chứng cụ thể cho tính thống nhất, đoàn kết từ trên xuống dưới, sự
đồng thuận từ dưới lên trên. Đại đoàn kết trong tính tương tác hai chiều như
thế càng thể hiện rõ tính dân chủ tập trung, nhân văn của Đảng, của nhân dân
ta.
Toàn Đảng, toàn
dân ta đoàn kết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo nước nhà bằng con đường
hòa bình, vì mục tiêu phát triển chung của đất nước, vì lợi ích chính đáng của
người dân, cũng như vẫn bảo đảm mối quan hệ hòa bình, phát triển nên chúng ta
không tẩy chay hay bài trừ người Trung Quốc, hàng hóa Trung Quốc. Trái với
những tin đồn thất thiệt, hoạt động giao thương giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn
ổn định. Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, năm 2014, tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc đạt hơn 58 tỷ USD, tăng hơn 17% so với năm
2013. Trung Quốc liên tục là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam, trở
thành thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Mỹ). Năm 2014, Việt
Nam là đối tác thương mại lớn thứ hai của Trung Quốc trong ASEAN (sau
Ma-lai-xi-a). Tính riêng ba tháng đầu năm 2015, kim ngạch thương mại song
phương đạt 14,6 tỷ USD, tăng khoảng 17,5% so với cùng kỳ năm 2014 (1).
Trong bối cảnh
hiện nay, cần tăng cường đại đoàn kết toàn dân trong tâm thế chủ động, tỉnh
táo, sử dụng các biện pháp, hình thức sáng tạo, tránh để các thế lực thù địch
thực hiện những âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm gây rối, làm mất an ninh trật
tự xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế… Việc công nhân tại Bình Dương, Vũng
Áng thời gian qua bị kẻ xấu xúi giục tụ tập, có những hành động ảnh hưởng đến
kinh tế, trật tự an toàn xã hội là bài học kinh nghiệm quý báu cho công tác vận
động, định hướng đúng đắn trong nhận thức và hành động để đại đoàn kết toàn dân
thực sự phát huy được sức mạnh và hiệu quả. Đảng, Nhà nước ta đã kịp thời ban
hành những chỉ thị, công điện, đề ra biện pháp chỉ đạo bảo đảm an ninh trật tự,
xây dựng thế trận lòng dân vững chắc để đại đoàn kết toàn dân không bị lợi dụng
bởi những kẻ xấu… thể hiện tầm nhìn và sách lược đúng đắn, kịp thời về đại đoàn
kết toàn dân phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới.
Nâng
tầm sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để bảo vệ hiệu quả chủ quyền biển đảo quốc
gia
Để tập trung và
phát huy hiệu quả đại đoàn kết toàn dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo nước
ta hiện nay, cần chú trọng:
- Tăng cường hơn
nữa sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm phát huy và
nâng tầm sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, để đại đoàn kết toàn dân thực sự là
nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo
đảm thắng lợi bền vững trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ
quyền biển, đảo đất nước.
- Có sự phối
hợp, kết hợp chặt chẽ giữa vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước,
chính quyền địa phương các cấp và người dân để huy động đại đoàn kết toàn dân
trong một khối thống nhất, đồng thuận, tránh việc các phần tử xấu lợi dụng đoàn
kết để lôi kéo, kích động biểu tình trái pháp luật, gây rối trật tự, an ninh xã
hội và ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước, cũng như ảnh hưởng đến
quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam.
- Đổi mới, nâng
cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về biển đảo
và ý thức chủ quyền biển, đảo gắn với chủ quyền quốc gia đến đông đảo các tầng
lớp nhân dân trong nước nhằm giúp người dân hiểu đúng và có ý thức đồng thuận
cao. Từ đó, tạo sự kết nối liền mạch giữa các thế hệ về ý thức đại đoàn kết
toàn dân, ý thức về chủ quyền biển, đảo nước nhà trong tất cả các giai tầng xã
hội, không phân biệt trẻ già. Đồng thời, chú trọng tuyên truyền đến người Việt
Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế để họ có cái nhìn đúng đắn về chủ quyền biển
đảo nước ta, từ đó tự giác, tích cực ủng hộ, hưởng ứng công cuộc bảo vệ chủ
quyền biển, đảo. Có thể sử dụng nhiều hình thức đa dạng như: qua đội ngũ báo
cáo viên, tuyên truyền viên, thông qua các kênh truyền thông trong nước và quốc
tế, qua Internet, mạng xã hội (Youtube, Facebook, Twitter…) để đưa những thông
tin lịch sử minh chứng cho chủ quyền biển, đảo của Việt Nam đã có từ lâu đời,
cập nhật diễn tiến tình hình trên Biển Đông và thông tin rộng rãi chủ trương
Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng con đường hòa bình… nhằm giúp mọi
người hiểu và tích cực ủng hộ nước ta. Đặc biệt, chú trọng phát huy vai trò của
từng người dân trong tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo, khuyến khích họ sử
dụng mạng xã hội để biến sức mạnh trên mạng thành sức mạnh trong thực tế, kết
nối và tăng cường sự ủng hộ của đồng bào trong nước, bạn bè quốc tế một cách
liên tục, hiệu quả.
- Huy động sự
ủng hộ về vật chất và cả tinh thần của người dân ở trong và ngoài nước để ủng
hộ ngư dân bám biển, ủng hộ lực lượng cảnh sát biển làm nhiệm vụ gìn giữ chủ
quyền biển, đảo thông qua các hình thức: tổ chức những cuộc vận động, chương
trình tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo, lập quỹ ủng hộ vì biển, đảo quê
hương,… Những việc làm này cần được tiến hành thường xuyên, mở rộng không chỉ ở
phạm vi người Việt trong nước mà còn ở nước ngoài, hướng tới thu hút sự quan
tâm, tham gia của nhân dân ta và bạn bè thế giới yêu chuộng hòa bình, chính
nghĩa.
- Làm tốt công
tác vận động quần chúng, gắn với biểu dương kịp thời những tấm gương vận động
quần chúng tích cực, hiệu quả nhằm bảo đảm duy trì, phát triển hiệu quả khối
đại đoàn kết toàn dân về cả chất và lượng; xử lý nghiêm những trường hợp lợi
dụng đại đoàn kết để gây mâu thuẫn dân tộc, làm mất ổn định an ninh xã hội.
- Không ngừng
tạo mối liên hệ đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ
của người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè thế giới thông qua con đường chính
trị, ngoại giao, giao lưu văn hóa… nhằm nâng tầm chất lượng đại đoàn kết, tạo
nên sức mạnh quốc gia kết hợp với sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc kết hợp
với sức mạnh thời đại, phục vụ hiệu quả công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo
nước ta trong giai đoạn hiện nay
Đoàn kết thống nhất theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nguyễn Quốc Gia
Gv. Khoa Xây
Dựng Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập rèn luyện Đảng ta, lãnh tụ thiên tài
của dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Trọn cuộc đời Người đã chăm lo cho sự
phát triển của cách mạng Việt Nam, chăm lo cho hạnh phúc của tất cả mọi người.
Như nhà thơ Tố Hữu đã từng ca ngợi: “Nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Đúng!
Người đã quên mình mà hy sinh trọn đời cho dân tộc, cho đất nước, cho nhân dân
và cho nhân loại. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Người đã chăm lo xây
dựng sự đoàn kết thống nhất cho toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn
quân và đoàn kết với nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Đọc lại
Hồ Chí Minh Tuyển tập, Hồ Chí Minh Toàn tập, một điều dễ cho chúng ta nhận thấy
rằng: Hầu như tất cả những bài viết, bài nói chuyện của Người với đồng bào,
đồng chí, với bạn bè, anh em Bác đều nhắc nhở phải giữ gìn sự đoàn kết, đoàn
kết là sức mạnh, đoàn kết là chìa khoá của mọi thành công. Trong diễn văn mừng
năm mới 1955, khi nói về vấn đề tranh thủ sự ủng hộ của thế giới cho cách mạng
Việt Nam, Bác khẳng định “Bất kỳ người nào, bất kỳ nhóm nào nếu họ tán
thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì chúng ta cũng sẵn sàng thật
thà đoàn kết với họ, chúng ta đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước bạn” .
Hay trong thư gửi Hội nghị cán bộ Y tế, Bác viết: “Bác góp vài ý kiến sau đây
để giúp các cô, các chú thảo luận - Trước hết là phải thật thà đoàn kết, đoàn
kết là sức mạnh của chúng ta, đoàn kết thì vượt được mọi khó khăn giành được
nhiều thành tích”. Rồi trong lời kêu gọi ở lễ mừng Quốc khánh 2 - 9 năm 1955,
Bác nhấn mạnh “Đoàn kết là lực lượng vô địch, lực lượng đoàn kết đã giúp cách
mạng tháng Tám thành công, lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi,
lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh thực hiện hoà
bình, thống nhất, độc lập dân chủ trong cả nước”.
Còn trong buổi nói chuyện với Hội
nghị Công an toàn quốc lần thứ 10 Bác đã căn dặn: “Để làm tròn nhiệm vụ thì
phải luôn luôn đoàn kết nội bộ, nâng cao cảnh giác, chớ chủ quan khinh địch, tự
mãn”. “Khi một dân tộc đã đoàn kết nhất trí, đấu tranh dành độc lập tự do…thì
nhất định họ sẽ thắng lợi…”
Như vậy, xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Người coi là vấn đề quan
trọng, mang ý nghĩa sống còn để giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Đoàn kết thống nhất là nguồn gốc của sức mạnh, là then chốt của mọi thành công.
Vì thế suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi của mình, Người đã đặc biệt
chăm lo xây dựng rèn luyện để Đảng ta trở thành một khối đoàn kết thống nhất. Trước
khi từ biệt chúng ta để về với thế giới vĩnh hằng, trong Di chúc để lại cho
toàn Đảng, toàn dân ta, Người đã căn dặn: “Trước hết nói về Đảng, nhờ đoàn kết
chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc
cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo
nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Các đồng
chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Truyền thống đoàn kết của Đảng có cội nguồn từ truyền thống đoàn kết của dân
tộc Việt Nam. Đối với nước ta, thắng lợi trong đấu tranh dành chính quyền,
trong đấu tranh dựng nước, giữ nước và những thành quả bước đầu trong xây dựng
CNXH (đặc biệt là những thành tựu củ hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới của
đất nước). Xét đến cùng đều là kết quả của sự đoàn kết, thống nhất của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Nói một cách khác, sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Lịch sử
hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam gắn liền với truyền thống yêu
nước, đoàn kết, kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm, khoan dung độ lượng. Trải
qua lịch sử hàng ngàn năm, truyền thống ấy được phát triển ngày càng
phong phú, khắc hoạ ngày càng đậm nét trong văn hoá, bản sắc dân tộc và là bộ
phận hợp thành sức mạnh dân tộc..
Trong quá
trình tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã sớm tìm ra nguyên nhân thất bại của các
phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của các vị tiền bối, chính là đã
không phá được, âm mưu“Chia để trị” mà thực dân Pháp thiết lập ở Việt Nam và
Đông Dương. Bằng âm mưu thâm độc ấy thực dân Pháp muốn phá vỡ truyền thống đoàn
kết sức mạnh trường tồn của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã tìm ra nguồn động
lực, sức mạnh giải phóng cho dân tộc ngay trong lòng mọi người dân Việt Nam. Từ
truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc đã tạo thành sức mạnh
của các phong trào đấu tranh chống ngoại xâm nối tiếp nhau đòi lại nền độc
lâp tự do cho Tổ quốc.
Thực tế đã cho ta thấy rõ, nhờ đoàn kết một lòng, thực hiện
tốt tư tưởng Hồ Chí Minh, qua 78 năm đấu tranh cách mạng tuyệt đại bộ phận cán
bộ, đảng viên của Đảng đã đoàn kết nhất trí, phấn đấu hy sinh không sợ khó khăn
gian khổ. Phấn đấu vì mục tiêu: Vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ, văn minh; Vì độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước
Việt Nam XHCN. Bằng sức mạnh đại đoàn kết, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đấu
tranh thắng lợi trong cách mạng giải phóng dân tộc và hiện nay đang lãnh đạo
cách mạng Việt Nam từng bước quá độ tiến lên CNXH. Nhiệm vụ trước mắt là thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, lấy việc phát
triển kinh tế là trọng tâm đưa đất nước Việt Nam từng bước đi lên. Đoàn kết
trong Đảng đã trở thành hạt nhân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn
kết quốc tế rộng rãi để tạo nên sức mạnh cho cách mạng Việt Nam. Nhưng thực tế
trong Đảng vẫn còn: “Một bộ phận cán bộ đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt các
cấp, yếu kém cả về phẩm chất, năng lực, vừa thiếu tính tiên phong gương mẫu,
vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ”(VKĐH X tr6). Điều đó đã làm giảm sút
năng lực lãnh đạo và sức chiến đầu của Đảng, ảnh hưởng đến chính sách đại đoàn
kiết dân tộc. Vì vậy, năm bài học kinh nghiệm đã được ĐH Đảng toàn quốc lần thứ
IV của Đảng rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị: Đó là:
1. Đoàn kết thống nhất trong Đảng phải trên cơ
sở chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương chính
sách, đúng đắn của Đảng. Mục tiêu lý tưởng của Đảng nhất quán là Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đó là điểm tập trung quy tụ mọi tổ chức
Đảng, đảng viên và toàn thể quần chúng nhân dân xung quanh Đảng để thực hiện
mục tiêu cao cả đó. Nếu xa rời mục tiêu lý tưởng này thì nội bộ Đảng sẽ bị chia
rẽ, sự thống nhất của các tổ chức Đảng từ trung ương cho đến cơ sở, mọi cán bộ
đảng viên sẽ mất phương hướng. Cán bộ đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng, của
cách mạng, của nhân dân lên trên hết như Bác Hồ đã từng căn dặn: “Ngoài lợi ích
của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc Đảng ta không có lợi ích gì khác” (3)
2. Thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức,
sinh hoạt Đảng; trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách. Đây là điều kiện quan trọng đảm bảo cho toàn Đảng luôn
thống nhất về tổ chức tư tưởng và hành động. Các tổ chức Đảng thực hiện tốt vấn
đề này sẽ quy tụ được trí tuệ của đông đảo đội ngũ cán bộ đảng viên và tập thể
cấp uỷ; Đề cao trách nhiệm cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp. Ở
cơ sở sẽ xác định đúng nhiệm vụ chính trị, đề ra nghị quyết và các giải pháp tổ
chức thực hiện sẽ được sát đúng thực tế phù hợp với cơ sở. Các nghị quyết sẽ
được nhận thức thống nhất, những sai lầm khuyết điểm cũng được phát hiện và sửa
chữa kịp thời. Loại trừ từ gốc những mầm mống dẫn tời tình trạng không thống
nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ dân chủ
trong Đảng là nền tảng cho sự đoàn kết “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố
và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng” (4). Đảng chỉ mạnh thực sự khi
trong Đảng có sự đoàn kết thống nhất cả trong tư tưởng, hành động và tổ chức,
không đoàn kết một cách hình thức. Chỉ trên cơ sở đoàn kết thống nhất, dân chủ
thì đảng viên mới thực sự trung thực, thẳng thắn, chân thành với nhau giúp nhau
nhận rõ khuyết điểm sai lầm để cùng tiến bộ.
3. Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ quy định về tự phê bình và phê bình
trong Đảng.
Tự phê bình và phê bình là biện pháp
quan trọng nâng cao trí tuệ, phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn trong
Đảng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải có tính Đảng, tính nguyên tắc cao;
Phải đảm bảo tự phê bình và phê bình để tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, tăng cường mỗi quan hệ giữa Đảng và quần chúng, là nội dung thường xuyên
của sinh hoạt Đảng. Vì vậy, mỗi cán bộ đảng viên phải coi đấu tranh tự phê bình
và phê bình trong Đảng cần thiết như cơm ăn, nước uống và không khí thở hàng
ngày không được lơ là chểnh mảng. Nếu không thực hiện tốt điều này sẽ dễ dẫn
đến mất đoàn kết trong Đảng; Nhưng đồng thời phải kịp thời ngăn chặn các biểu
hiện lợi dụng dân chủ, lợi dụng phê bình gây chia rẽ mất đoàn kết.
4. Thường xuyên giáo dục và bồi dưỡng tình thương yêu đồng chí giữa cán
bộ đảng viên.
Cách mạng đòi hỏi đội ngũ cán bộ đảng viên
phải gắn bó chặt chẽ với nhau không chỉ bằng tổ chức mà còn gắn bó với nhau
bằng tình thương và lòng nhân ái của những người cùng chung chí hướng, cùng
chung lý tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: Tình thương và lòng nhân ái là
sự thống nhất giữa lý trí, tình cảm và tinh thần. Không có lý trí thì không thể
xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính; Nhưng không có tình cảm cách mạng,
tình đồng chí, tình thương yêu giữa con người với nhau, thì đoàn kết trong Đảng
chỉ là hình thức. Đối với tổ chức cơ sở Đảng sự hiểu biết cặn kẽ về công tác,
về điều kiện sinh hoạt và hoàn cảnh của nhau… là những yếu tố góp phần quan
trọng xây dựng nên khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Vì vậy, phải thường
xuyên quan tâm giáo dục và bồi dưỡng tình thân ái đồng chí và sự cảm thông sâu
sắc giữa đội ngũ cán bộ đảng viên với nhau.
5. Tập thể cấp uỷ, các đồng chí trong ban thường vụ nhất là đồng chí bí
thư phải thực sự là trung tâm đoàn kết.
Từ trung tâm đoàn kết đó mới quy tụ được đội ngũ cán
bộ, đảng viên, mọi thành viên trong hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng..
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết thống nhất, chúng ta càng thấm thía hơn với tấm lòng bao dung,
vị tha, bác ái trong tư tưởng của Người. Xin được lấy một nhận xét hết sức xác
đáng và thú vị của giáo sư sử học Trần Văn Giầu để thay cho lời kết:
Trong cửa Phật không có khái niệm nào
được lặp đi lặp lại nhiều lần bằng khái niệm “từ bi”. Trong cửa Khổng sân Trình
không có khái niệm nào được nhắc đi nhắc lại nhiều lần bằng khái niệm “nhân nghĩa”.
Trong vận động yêu nước và cách mạng chúng ta luôn nói “đoàn kết” mà không khi
nào thừa; Chữ khắc lên đá càng vạch càng sâu, ý niệm trong tâm càng tụng càng
thấm. Lời cụ Hồ dặn:
“Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết.
Thành công, thành công đại thành công” là chân lý vĩnh hằng, là bí quyết
tồn tại, là vinh quang của dân tộc ta đó.
Đồng
thuận xã hội - một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Trần
Đắc Hiến
TCCS
- Đồng thuận xã hội là vấn đề xuất hiện và song hành cùng với sự ra đời và phát
triển của xã hội loài người, do nhu cầu hợp tác và bảo tồn cuộc sống chung của
các cộng đồng người trong lịch sử quy định. Cùng với sự phát triển của lịch sử
xã hội, vấn đề đồng thuận ngày càng trở thành nhu cầu phổ biến, trên phạm vi
rộng lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của
xã hội.
Trước
hết có thể thấy rằng, khái niệm đồng thuận xã hội được phát triển từ khái niệm
đồng thuận, với nghĩa là sự đồng ý với nhau giữa ít nhất hai người về một hoặc
một số vấn đề nào đó, trên cơ sở đó đi đến thống nhất về hành động. Sự thống
nhất giữa tư tưởng, ý chí và hành động của những lực lượng xã hội trong một hệ
thống xã hội nhất định được xem là đồng thuận xã hội. Nói cách khác, đồng thuận
xã hội là sự đồng tình, nhất trí với nhau của đại đa số thành viên trong xã hội
về một hoặc một số vấn đề nào đó, trên cơ sở đó, các thành viên này gắn kết
chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động của mình nhằm đạt đến mục đích chung.
Đồng thuận xã hội có nội dung đa dạng, phong phú, phức tạp trên nhiều lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, như kinh tế, chính trị, văn hóa, tâm lý, nhận
thức, tín ngưỡng, tôn giáo; có nhiều phạm vi khác nhau và các mối quan hệ xã
hội khác nhau, như trong nội bộ cộng đồng dân cư, tầng lớp, giai cấp, dân tộc,
nhân loại hoặc quan hệ giữa các lực lượng xã hội ấy với nhau. Đồng thuận xã hội
là điều kiện khách quan cho sự tồn tại, ổn định và phát triển bền vững của mỗi
hệ thống xã hội; đồng thời là phương thức tập hợp lực lượng hữu hiệu nhất trong
đời sống chính trị - xã hội của xã hội hiện đại. Trong lịch sử phát triển của
xã hội nói chung, mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng, đồng thuận xã hội có những
biểu hiện đa dạng, diễn biến thăng trầm khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển
kinh tế - xã hội, đặc điểm thời đại, tương quan lực lượng giữa các giai cấp,
tầng lớp xã hội và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Mặc dù vậy, chúng tôi cho rằng,
trong bất kỳ hoàn cảnh lịch sử - cụ thể nào, đồng thuận xã hội đều được thiết
lập và củng cố trên các cơ sở chủ yếu sau đây:
Thứ
nhất, sự thống nhất về lợi ích chung giữa các thành viên xã hội, trong đó quan
trọng nhất là về lợi ích kinh tế, chính trị và văn hóa. Trong đời sống xã hội
có nhiều loại lợi ích khác nhau tùy thuộc cách tiếp cận, chẳng hạn lợi ích
chung, lợi ích riêng, lợi ích cơ bản, lợi ích cá nhân, lợi ích giai cấp, lợi
ích quốc gia dân tộc, lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hóa, lợi
ích trước mắt, lợi ích lâu dài v.v.. Thực tiễn và lý luận đều cho thấy rằng,
lợi ích là cơ sở để kết nối các thành viên của một cộng đồng xã hội nhất định;
sự đồng thuận và tính chất bền vững của một cộng đồng xã hội phụ thuộc vào khả
năng giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa các thành viên của nó; vì lợi ích mà
con người cùng nhau thỏa thuận để đi đến sự đồng thuận. Như vậy, cơ sở của đồng
thuận xã hội là đồng thuận về lợi ích giữa các thành viên xã hội và bản chất
của đồng thuận xã hội chính là sự đồng thuận về lợi ích. Phương thức để tạo ra
đồng thuận xã hội là tìm kiếm sự đồng thuận về lợi ích chung trên phạm vi xã
hội giữa các khuynh hướng, lực lượng xã hội khác nhau. Lợi ích chung này không
phải là một đại lượng bất biến, mà tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể, nội dung
của nó có sự khác nhau.
Trong
xã hội, giữa các thành viên xã hội luôn tồn tại sự khác nhau về nhận thức, địa
vị xã hội, quan điểm, tư tưởng, tín ngưỡng, lập trường giai cấp... nên trên
thực tế không thể tạo ra được một sự đồng thuận tuyệt đối và càng không thể áp
đặt một cách máy móc những giá trị, lợi ích chung của nhóm xã hội này cho nhóm
khác. Vấn đề mấu chốt là làm thế nào để các thành viên xã hội tự ý thức được
giới hạn các lợi ích của mình trong quan hệ với lợi ích chung, từ đó đi đến
thống nhất giới hạn của lợi ích chung để tạo ra được sự đồng thuận xã hội; trái
lại, nếu lợi ích giữa các chủ thể xã hội mâu thuẫn gay gắt với nhau thì sẽ làm nảy
sinh xung đột xã hội.
Thứ
hai, sự tự nguyện nhất trí, tự giác gắn kết giữa các thành viên xã hội. Đồng
thuận xã hội phải là kết quả của các cuộc thảo luận, đàm phán, thương thảo,
thỏa thuận một cách khách quan, toàn diện trên quy mô xã hội. Xã hội càng tự
do, dân chủ thì việc thảo luận càng diễn ra công khai, rộng rãi và do đó càng
đạt được sự đồng thuận cao. Như vậy, giữa đồng thuận xã hội và dân chủ có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Xây dựng sự đồng thuận xã hội cũng chính là tiến tới
xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ; ngược lại, dân chủ càng được bảo đảm, các
nguyên tắc của dân chủ càng được coi trọng thì càng đạt được sự đồng thuận xã
hội ở mức cao. Nói cách khác, mức độ đồng thuận xã hội tỷ lệ thuận với chất
lượng của đời sống dân chủ trong xã hội. Ngược lại, mọi sự cưỡng bức, áp đặt,
vi phạm dân chủ cùng lắm cũng chỉ tạo ra được sự nhất trí tạm thời nào đó chứ
không thể tạo ra sự đồng thuận đích thực, thậm chí còn tiềm ẩn khả năng dẫn đến
xung đột xã hội.
Thứ
ba, tôn trọng và thừa nhận những sự khác biệt không "đi ngược" mục
tiêu chung, lợi ích chung của các thành viên xã hội. Chúng ta biết rằng, xã hội
là một tập hợp những người không đồng nhất với nhau về lợi ích, nhu cầu, năng
lực, quan điểm, tư tưởng... Những khác biệt này được xem là những "cái đơn
nhất" của mỗi "cái riêng" trong mối liên hệ với "cái
chung". Chính những sự khác biệt trong đồng thuận xã hội đã tạo nên tính
đa dạng, phong phú, phức tạp trong đời sống xã hội. Bên cạnh sự khác biệt, đồng
thuận xã hội cũng hàm chứa cả những đối lập trong chừng mực nhất định giữa các
khuynh hướng, lực lượng xã hội. Đây là những nhân tố cần thiết trong quá trình
vận động, phát triển xã hội. Sự đối lập này là có tính biện chứng chứ không
phải siêu hình, hay có tính chất tiêu cực, đối kháng, phá hoại, gây bất ổn xã
hội. Thực tế cho thấy, trong không ít trường hợp, những quan điểm khác biệt
hoặc đối lập đã trở thành một kênh "phản biện xã hội" tích cực để qua
đó các chủ thể lãnh đạo, quản lý đất nước điều chỉnh, hoàn thiện chủ trương,
chính sách nhằm tạo ra sự đồng thuận xã hội trong việc thực thi những chủ
trương, chính sách ấy một cách hiệu quả. Vì vậy, phản biện xã hội như một
phương thức quan trọng để đạt đồng thuận xã hội. Bởi vì, không có phản biện xã
hội thì sẽ không có dân chủ, không có dân chủ thực sự thì không thể có đồng
thuận, đại đoàn kết dân tộc.
Đồng
thuận xã hội còn bao hàm cả sự đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Phép biện chứng duy vật mác-xít đã chỉ rõ, sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan vận động, phát triển luôn gắn liền
với sự vận động, phát triển và giải quyết các mâu thuẫn. Xây dựng và tăng cường
đồng thuận xã hội cũng chính là quá trình không ngừng phát hiện và giải quyết
các mâu thuẫn xã hội. Dựa trên cơ sở những điểm tương đồng, sự đấu tranh giải
quyết mâu thuẫn nhằm đạt được sự thống nhất. Như vậy, đồng thuận xã hội chính
là mục đích của việc giải quyết mâu thuẫn biện chứng giữa những mặt đối lập để
khắc phục những bất đồng về tư tưởng, quan điểm, lợi ích và hành động giữa các
lực lượng xã hội nhằm đi đến sự thống nhất chung. Các mâu thuẫn ở đây được giải
quyết bằng phương thức "kết hợp các mặt đối lập" nhằm củng cố, tăng
cường mối quan hệ đoàn kết, thống nhất và đồng thuận giữa các lực lượng xã hội,
tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Về
nguyên tắc, đồng thuận xã hội là yếu tố thuộc bản chất của xã hội xã hội chủ
nghĩa (XHCN), là mục tiêu phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân ta. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã chủ động tích lũy kinh nghiệm, lắng
nghe các quan điểm, tư tưởng chính diện, phản diện trong các lực lượng cách
mạng của quần chúng. Trên cơ sở đó, phân tích kỹ lưỡng, đề ra các giải pháp
nhằm dần dần xóa bỏ những khác biệt, bất đồng, đối lập, đồng thời thúc đẩy mối
quan hệ đoàn kết gắn bó các tầng lớp nhân dân dưới ngọn cờ của Đảng cùng nhau
thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng CNXH. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng chữ
"đồng", với nội dung hết sức phong phú, sinh động và biện chứng, như
đồng tâm, đồng lòng, đồng mục tiêu, đồng lý tưởng, đồng lợi ích v.v.. Người
viết: "Dân ta xin nhớ chữ đồng: đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng
minh"; "Biết đồng sức, Biết đồng lòng. Việc gì khó làm cũng
xong". Người cũng chỉ rõ: "Sử ta dạy ta bài học này: Lúc nào dân tộc
ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại lúc nào dân
ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn". Từ đó, với nguyên tắc: Dân
tộc trên hết, Tổ quốc trên hết, Người chủ trương: đoàn kết rộng rãi, đoàn kết
chặt chẽ, đoàn kết lâu dài với tất cả những ai có thể đoàn kết được vì mục tiêu
chung. Nhờ vậy, đã quy tụ được mọi thành phần xã hội thuộc các giai cấp, tầng
lớp, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người bóc lột và bị bóc lột, những
người trước đây từng là kẻ thù của nhân dân nhưng nay đã thực sự ăn năn, hối
cải... dưới ngọn cờ cách mạng, nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo
nên sức mạnh tổng hợp để cùng nhau tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.
Người chủ trương: Mặt trận sẵn sàng đoàn kết tất cả những người yêu nước không
phân biệt xu hướng chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo...; không phân biệt họ thuộc
đảng phái nào... và quá khứ của họ đã hợp tác với phe nào; Bất kỳ ai mà thật
thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó
trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ. Tư
tưởng ấy xuất phát từ tinh thần biện chứng và nhân văn sâu sắc trong nhân cách
văn hóa Hồ Chí Minh. Nhờ đó, đã tạo ra sự đồng thuận xã hội rộng lớn, có đủ sức
mạnh trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước.
Quán
triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc nhằm tạo ra sự đồng thuận, thống nhất cao về ý chí và hành
động trong toàn xã hội. Ưu thế của Đảng ta trong việc tạo ra sự đồng thuận xã
hội là chúng ta chỉ có duy nhất một đảng, đồng thời là đảng cầm quyền; chúng ta
có lực lượng quần chúng nhân dân gắn bó máu thịt với Đảng qua các cuộc chiến
tranh vệ quốc; nhân dân ta có truyền thống đoàn kết gắn bó với nhau. Đồng thuận
xã hội tạo điều kiện quy tụ được lực lượng của toàn dân, để xây dựng cơ sở xã
hội - chính trị vững chắc của Đảng. Mục tiêu và quan điểm cơ bản của Đảng ta là
tăng cường đồng thuận xã hội, khắc phục những khác biệt, bất đồng để đi đến
thống nhất tư tưởng và hành động, từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp để đưa công
cuộc đổi mới theo định hướng XHCN đi đến thắng lợi, đồng thời chống quan liêu,
tham nhũng có hiệu quả và đánh bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng
của các thế lực thù địch. Với ý nghĩa đó, đồng thuận xã hội không phải là sách
lược mà là một chiến lược của Đảng.
Đồng
thuận xã hội ở nước ta hiện nay phản ánh yêu cầu khách quan của việc xây dựng
đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; thể hiện nguyện vọng
chung của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Đồng thuận xã hội được thực hiện
trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động
Việt Nam, bao gồm đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở
trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài. Việc kết hợp này được thực hiện
trên cơ sở mục tiêu lợi ích chung là giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất của
Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; trên
nguyên tắc lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và xã hội gắn chặt và thống nhất
với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp; coi trọng lợi ích cá
nhân nhưng không tuyệt đối hóa, không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ dẫn
đến mâu thuẫn gay gắt, làm tổn hại đến lợi ích chung của cộng đồng, của dân
tộc; kết hợp hài hòa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, lợi ích địa phương
và lợi ích cả nước. Đảng ta chủ trương: "Đại đoàn kết toàn dân tộc cần lấy
mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân
tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở
nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần
giai cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc;
đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy
lẫn nhau, giữ gìn sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội vì tương lai tươi
sáng của dân tộc". Đồng thời Đảng cũng khẳng định: "Động lực chủ yếu
để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của toàn xã hội".
Đồng
thuận xã hội là nhân tố quan trọng góp phần bảo đảm ổn định chính trị, xã hội,
tạo điều kiện phát triển kinh tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do đó, xây dựng đồng thuận xã hội là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội
và là trách nhiệm của mỗi công dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để đạt được đồng
thuận xã hội, theo chúng tôi, cần phải:
Một
là, tạo ra cơ chế để mọi người đồng thuận với nhau và đồng thuận với sự hướng
dẫn chính trị của Đảng và Nhà nước trong từng nhiệm vụ, từng giai đoạn phát
triển của đất nước; tạo điều kiện để mỗi người đều thấy mình được tự do, được
tôn trọng, có quyền bình đẳng như tất cả mọi người khác; hình thành và mở rộng
các diễn đàn để thông qua đó mọi người có điều kiện cùng trao đổi, thương
lượng, đàm phán, thỏa thuận để đi đến thống nhất về tư tưởng và hành động với
nhau.
Hai
là, xử lý hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, các khuynh
hướng, lực lượng xã hội trong quá trình hoạch định chính sách, chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Ba
là, kiên trì quan điểm lấy dân làm gốc, lấy lợi ích căn bản của đại đa số nhân
dân làm điểm xuất phát và cơ sở của mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Điều này đòi hỏi các chủ thể lãnh đạo đất nước phải biết lắng nghe một
cách nghiêm túc, chân thành những tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân
và quần chúng nhân dân cũng phải hiểu biết những người cầm quyền của mình.
Bốn
là, mở rộng và thực thi có hiệu quả dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Qua đó nhằm
động viên, phát huy tính chủ động, sáng tạo, sức mạnh vật chất, tinh thần của
nhân dân, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và củng cố
mối quan hệ đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời góp phần xây dựng Đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và
đẩy lùi có hiệu quả nạn quan liêu, tham nhũng, củng cố niềm tin của nhân dân
với Đảng, Nhà nước, tạo ra sự đồng thuận cao trong đời sống xã hội.
Năm
là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục để các giai cấp, tầng
lớp nhân dân, các lực lượng xã hội tự nguyện thống nhất với nhau về các vấn đề
cơ bản, vì mục tiêu và lợi ích chung của đất nước; chú trọng công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân kết hợp với phát huy truyền thống nhân nghĩa, khoan dung của dântộc.
Sáu
là, có thái độ khách quan, khoa học trong việc nhận thức, phân tích và xử lý
những quan điểm, tư tưởng lệch lạc, sai trái trong nhân dân; tích cực, chủ động
trong việc giải quyết các mâu thuẫn nội bộ nhân dân nhằm tăng cường đồng thuận
xã hội. Việc giải quyết mâu thuẫn được thực hiện bằng các biện pháp tuyên
truyền, vận động, giác ngộ cách mạng trong quần chúng kết hợp với các giải pháp
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Thực tế cho thấy, đồng thuận xã hội khó có thể được xây dựng và tồn tại
bền vững trên nền tảng của sự yếu kém kéo dài về mọi mặt trong xã hội, nhất là
về kinh tế. Nếu tình trạng trì trệ, yếu kém toàn diện kéo dài, nhất là về kinh
tế, thì sớm muộn sẽ dẫn đến những biến cố gây bất ổn và rối loạn xã hội. Sự tan
rã của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã cho ta thấy điều này.
Trong
xã hội hiện đại ngày nay, khuynh hướng đối đầu, đối địch giữa các quốc gia dần
chuyển sang khuynh hướng đối thoại, hiệp thương, đối tác để hướng tới sự ổn
định, cùng có lợi và phát triển. Tư tưởng xây dựng thế giới đại đồng, xã hội
hài hòa, ổn định không những mang đậm tính nhân văn, mà còn là một khao khát
của nhân loại tiến bộ. Đồng thuận xã hội là một trong những phương thức cơ bản
nhất để đạt được mục tiêu đó./.
Giương cao ngọn cờ Đại đoàn kết Hồ Chí Minh
vững bước vào thời kỳ phát triển mới
GS.TS. Phùng Hữu Phú.
UBTƯ Đảng, Phó Trưởng Ban Thường
trực.
Ban Tuyên giáo Trung ương.
Để đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, tạo bước đột phá trong phát triển đất nước, những
năm tới Đảng Cộng sản Việt Nam phải dành nhiều công sức tạo bước chuyển biến rõ
rệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch về chính trị, tư tưởng, tổ chức,
đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo
khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực.
Dĩ
bất biến ứng vạn biến
Càng đi sâu
nghiên cứu, suy ngẫm, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, đối chiếu với sự vận động
theo dòng chảy thời gian của đời sống, càng thấy tầm phủ sóng rộng lớn và độ mở
khôn cùng tư tưởng của Người. Có thể tìm thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh
nhiều, rất nhiều vấn đề còn nóng hổi tính thời sự, đặc biệt là tư tưởng đại
đoàn kết – sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các bài viết, bài nói và cuộc đời hoạt
động vô cùng phong phú, cao đẹp của Người. Đại đoàn kết, từ tư duy truyền thống
đến Hồ Chí Minh đã trở thành một chiến lược cách mạng nhất quán, thành bí quyết
thành công của cách mạng Việt Nam.
Trong cuộc
đấu tranh trường kỳ giành và giữ độc lập, tự do, thống nhất đất nước, tư tưởng
đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ tập hợp, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn
khó khăn, thử thách, giành những thắng lợi vĩ đại. Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết; thành công, thành công, đại thành công công là sự đúc kết của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về bài học lịch sử cơ bản, phản ánh quy luật phát triển của cách mạng Việt
Nam.
Sau khi Chủ
tịch Hồ Chí Minh qua đời, trung thành với tư tưởng cách mạng và khoa học của
Người, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng củng cố, bồi đắp khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tiếp tục lãnh đạo nhân
dân Việt Nam hoàn thành thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả
nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới.
Ở thời điểm
kết thúc thập niên thứ nhất, chuẩn bị bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ
XXI, Việt Nam đứng trước những thời cơ, vận hội phát triển mới, đồng thời cũng
phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ. Thành quả to lớn sau một
phần tư thế kỷ tiến hành sự nghiệp đổi mới đã làm tăng thêm nhiều lần thế và
lực của đất nước; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng
cường; độc lập, chủ quyền được giữ vững; đời sống nhân dân không ngừng được cải
thiện; vị thế và uy tín quốc tế được nâng cao. Đó là nền tảng cơ bản, tạo đà
cho bước phát triển bứt phá trong chặng đường sắp tới. Tuy nhiên, tiềm lực và
sức cạnh tranh chưa đủ mạnh của nền kinh tế đất nước trong cuộc ganh đua kinh
tế gay gắt, quyết liệt toàn cầu; những hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục
trong quản lý, giải quyết những vấn đề văn hóa, xã hội, nhất là tình trạng phân
hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội; cuộc đấu tranh cam go chống tham nhũng, tiêu
cực nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước; tính chất gay gắt của cuộc đấu tranh tư tưởng trước sự
chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch và sự phức tạp trong cuộc đấu
tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền trước xu hướng gia tăng cuộc
chạy đua tranh giành tài nguyên, năng lượng và các địa bàn chiến lược giữa các
quốc gia… là những khó khăn, thách thức đang đặt ra, đòi hỏi phải được giải
quyết.
Trong bối
cảnh đó, kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính
là phương sách tạo nên sức mạnh vô địch dựng nước và giữ nước; chính là lấy cái
bất biến để ứng phó với cái vạn biến của thời cuộc.
Dân
tộc trên hết, Tổ quốc trên hết; tất cả do con người, vì con người
Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh trọn đời hy sinh phấn đấu vì mục đích cao cả: dân tộc độc
lập – nhân dân tự do – con người hạnh phúc. Mọi suy nghĩ, tình cảm và hành động
của Người đều hướng vào, đều xoay quanh mục tiêu duy nhất đó. Chiến lược đại
đoàn kết Hồ Chí Minh trở thành ngọn cờ hiệu triệu, động viên sức mạnh vĩ đại
của đông đảo lực lượng yêu nước, cách mạng chính là vì Người đã nhận thức đúng
đắn sự thống nhất biện chứng và giải quyết hài hoà lợi ích dân tộc – lợi ích
giai cấp – lợi ích con người phù hợp với yêu cầu và điều kiện của từng thời kỳ,
giai đoạn cách mạng.
Những năm
tháng đất nước bị chủ nghĩa thực dân đô hộ, nhân dân sống trong lầm than nô lệ;
độc lập, chủ quyền dân tộc bị chà đạp; Tổ quốc bị chia cắt, độc lập, tự do, hòa
bình, thống nhất là đòi hỏi khách quan của toàn dân tộc, là ý nguyện của mọi
giai tầng xã hội, là khát vọng của mỗi người Việt Nam yêu nước. Lúc này, lợi ích
dân tộc, giai cấp, con người thống nhất làm một – nước mất thì nhà tan; không
giành được lợi quyền cho dân tộc thì lợi ích của giai cấp, của con người đến
vạn năm cũng không đòi lại được. Trong hoàn cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt
lợi ích dân tộc lên hàng đầu: Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết, dù phải đốt
cháy cả dãy Trường sơn cũng phải giành cho được độc lập, nếu còn một tên xâm
lược trên đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch chúng đi … Những lời
kêu gọi tràn đầy tính tư tưởng và hành động của Người đã khơi dậy chủ nghĩa yêu
nước và khí phách anh hùng của dân tộc, nhân dân, con người Việt Nam, tạo nên
những kỳ tích trong Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân,
đế quốc xâm lược.
Trong khi đề
cao lợi ích dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến lợi ích con
người. Trước khi giành được chính quyền, Người đặc biệt chú trọng lãnh đạo, chỉ
đạo phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ: ruộng đất cho dân cày;
tăng lương, giảm giờ làm cho thợ thuyền; quyền tự do cho công chức, viên chức,
học sinh, sinh viên… Đất nước vừa được độc lập, trước sự đe dọa của thù trong,
giặc ngoài, tình thế như ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa lãnh
đạo Chính phủ lâm thời lo chống giặc ngoại xâm, vừa dồn sức chống giặc đói,
giặc dốt. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Người chủ trương vừa kháng chiến vừa
kiến quốc, vừa đánh giặc vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đảm bảo
đời sống cho nhân dân, bộ đội. Trong quá trình xây dựng chế độ xã hội mới, Chủ
tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung
ương đến địa phương chăm lo cho con người, từ cái kim sợi chỉ, tương cà mắm
muối, việc học hành, khám chữa bệnh, đến đảm bảo quyền tự do, bình đẳng và cơ
hội phát triển, tiến bộ. Trước khi qua đời, trong Di chúc gửi lại cho toàn
Đảng, toàn dân, Người căn dặn ”Đầu tiên là công việc đối với con người”’, ”Đảng
cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm nâng cao
đời sống của nhân dân” . Có thể nói, như lời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: ”Tư
tưởng Hồ Chí Minh luôn luôn xuất phát từ con người và cuối cùng trở về với con
người với những khả năng thiên biến vạn hóa của nó”.
Dân tộc trên
hết, Tổ quốc trên hết; tất cả do con người, vì con người – đó chính là nền tảng
trong Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh; là mẫu số chung để tăng cường sự
thống nhất, đồng thuận và hóa giải những khác biệt, thậm chí mâu thuẫn về lợi
ích theo phương châm cầu đồng tồn dị. Đây là bài học lớn đối với cách mạng Việt
Nam
hiện nay.
Đảng Cộng sản
Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo đất nước luôn nhất quán mục tiêu xây dựng
một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; trước mắt, đang
động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phấn đấu đến năm 2020 đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Mục tiêu lý tưởng đó thật cao đẹp; mục tiêu phấn đấu trước
mắt có ý nghĩa thật lớn lao, thiết thực. Cần tăng cường tuyên truyền, vận động
để mục tiêu phấn đấu đó từ ý tưởng trong Cương lĩnh, trong Chiến lược của Đảng
thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân, của
mỗi người Việt Nam yêu nước, trở thành khát vọng, ý chí, quyết tâm chấn hưng
đất nước, thành mẫu số chung quy tụ đại đoàn kết toàn dân tộc, biến nó thành
sức mạnh hành động trong lao động, sáng tạo xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Trung thành
với chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
đặt vấn đề con người ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển, xem con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực, ”thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với
phát triển văn hóa, y tế, giáo dục… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu
phát triển con người.” Trên thực tế, cùng với những thành tựu to lớn của sự
nghiệp đổi mới, Việt Nam
đã thành công trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, thực hiện thắng lợi những mục
tiêu thiên niên kỷ. Điều kiện sống, lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe của
người Việt Nam không ngừng được cải thiện; quyền con người được tôn trọng, bảo
đảm; ước mơ, hoài bão và tài năng sáng tạo của con người được khuyến khích,
trân trọng. Tuy nhiên, do tiềm lực kinh tế còn hạn chế, do tác động của thiên
tai cùng ảnh hưởng những biến động khó lường của kinh tế quốc tế trong bối cảnh
hội nhập và do cả những yếu kém trong quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội,
đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa, những
người làm công ăn lương, những gia đình chính sách, neo đơn, cô quả… còn khó
khăn; khoảng cách giàu nghèo chậm được thu hẹp; tiến bộ và công bằng xã hội
triển khai chưa đồng bộ; có nơi, có lúc quyền và lợi ích của con người còn bị
xâm phạm. Bước vào thời kỳ phát triển mới, Đảng, Nhà nước cần đầu tư thích đáng
các nguồn lực; hoàn thiện và thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách đảm bảo
phúc lợi và an sinh xã hội, nâng cao chất lượng sống và bồi đắp, phát huy tài
năng lao động, sáng tạo vốn rất tiềm tàng của người Việt Nam, nhân lên sức mạnh
kết đoàn và nguồn năng lượng nội sinh vô tận. Những năm tháng này, lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo cho con người có ý nghĩa thời sự sâu sắc biết
nhường nào: ”Vấn đề con người là hết sức quan trọng. Nhà máy cũng rất cần có
thêm, có sớm, nhưng cần hơn là con người, là sự phấn khởi của quần chúng. Làm
tất cả là do con người”
Trong
bầu trời không có gì quý bằng nhân dân
Trong các di
cảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi ngời sáng những dòng chữ viết về Nhân Dân:
”Nước lấy dân
làm gốc”
”Gốc có vững
cây mới bền,
Xây lầu thắng
lợi trên nền nhân dân”;
”Trong bầu
trời không có gì quí hơn nhân dân.
Trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”;
”Dễ trăm, lần
không dân cũng chịu,
Khó vạn lần
dân liệu cũng xong”.
Đại đoàn kết
toàn dân tộc thực chất là đoàn kết toàn dân. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, phạm trù
Nhân Dân mở rộng biên độ tới tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, không phân
biệt dân tộc, tôn giáo, giàu nghèo, trong nước hay ở nước ngoài – ai tự nguyện
nhận mình là con Lạc cháu Hồng thì người đó là một tế bào của Nhân Dân. Theo
Người, Nhân Dân tuy là một phạm trù mở về biên độ, nhưng chặt chẽ về cơ cấu, tổ
chức – Mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề
nghiệp là tổ chức tập hợp, vận động, hướng dẫn và đại diện cho quyền lợi của
Nhân Dân, liên minh công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn
kết toàn dân.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ ra mối quan hệ máu thịt giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước
cách mạng với Nhân Dân. Một mặt, Nhân Dân chỉ có thể trở thành lực lượng tự
giác và phát huy cao nhất tiềm năng, sức mạnh của mình một khi có Đảng Cộng
sản, lãnh đạo; mặt khác, Đảng Cộng sản chỉ nắm được và giữ vững quyền lãnh đạo
đất nước, xã hội khi nào Nhân Dân tin tưởng, đi theo và hết lòng ủng hộ. Vì
vậy, Đảng Cộng sản phải hết lòng, hết sức phụng sự Nhân Dân; cán bộ, đảng viên
phải là người lãnh đạo, đồng thời là người đầy tớ, người công bộc thật sự trung
thành của Nhân Dân. Tất cả quyền lực và của cải là của Nhân Dân; Nhân Dân trao
quyền cho Nhà nước điều hành, quản lý, và do vậy Nhà nước phải phấn đấu trở
thành nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phải nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động, mang lại những lợi ích thiết thực phục vụ nhân
dân.
Trọng dân,
gần dân, hiểu dân, yêu dân, học dân, có trách nhiệm với dân; nghe dân nói, nói
dân hiểu, làm dân tin, mọi chủ trương, chính sách xuất phát từ dân và trở về
với dân… chính là phương châm hành động và phong cách Hồ Chí Minh. Suốt cuộc
đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh tình nguyện làm một người lính vâng lệnh quốc
dân đồng bào mà phấn đấu hy sinh, ”Hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân”. Nhân dân Việt Nam thành kính
biết ơn, tuyệt đối tin theo và đoàn kết xung quanh Người chính là vì lòng yêu
nước, thương dân bao la đó.
Mấy chục năm
qua, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá, nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ
phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, từ ngày thành lập đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân Việt Nam hăng
hái đấu tranh, tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.Ở thời điểm chuẩn bị
bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với mục tiêu phấn đấu có ý nghĩa lịch
sử, trong bối cảnh thuận lợi và thách thức đan xen, các thế lực thù địch đang
tìm mọi cách chống phá hòng phân hóa nội bộ nhân dân, kích động chia rẽ, đối
lập Nhân Dân với Đảng, việc kế thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh,
chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát huy dân chủ, quyền làm chủ và tiềm năng to lớn
của Nhân Dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc có ý nghĩa sống còn. Vấn
đề cấp bách phải làm ngay là tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một phận cán bộ, đảng viên;
khắc phục những yếu kém, khuyết điểm trong quản lý kinh tế, xã hội; giải quyết
có hiệu quả những vấn đề xã hội và dân sinh bức xúc; nâng cao dân trí, dân khí,
dân sinh; kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh tâm lý – thông tin của các thế
lực thù địch… nhằm củng cố niềm tin và bồi đắp quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhân
Dân với Nhân Dân. Làm tốt những công việc này thì khó khăn, thử thách nào cũng
có thể vượt qua; mục tiêu, nhiệm vụ nào Việt Nam cũng có thể thực hiện thắng
lợi.
Quan
san muôn dặm một nhà
Trong tư
tưởng và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc luôn gắn liền với
đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn hòa quyện và thống nhất
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hiếm có lãnh tụ quốc gia nào như Chủ tịch Hồ
Chí Minh, một phần lớn cuộc đời tranh đấu của mình lại gắn bó mật thiết, ở tầng
sâu và tầm cao, với thực tiễn phong trào cách mạng thế giới; nhận thức và giải
quyết những vấn đề của đất nước, dân tộc mình từ tầm nhìn nhân loại và xu thế
thời đại. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cách mạng Việt Nam là một
bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi
phải có một đảng chân chính lãnh đạo để trong thì tập hợp mọi lực lượng yêu
nước, ngoài thì liên kết với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức, bóc lột
nơi nơi. Khi đất nước đã giành được độc lập về chính trị, phải tiến hành sự
nghiệp kháng chiến kiến quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước và
xây dựng chế độ xã hội mới, với trách nhiệm là người đứng đầu Đảng và Nhà nước
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: “Việt Nam chỉ muốn hoà
bình và độc lập để cộng tác thân thiện với các dân tộc trên thế giới”; Việt Nam
là một bộ phận trong đại gia đình châu Á, một bộ phận trong nền hòa bình chung
toàn thế giới; “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước châu Á là một thái độ
anh em, đối với ngũ cường là thái độ bạn bè” ; “làm bạn với tất cả mọi nước dân
chủ và không gây thù oán với một ai”. Tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ
Chí Minh có sức thu hút và lan tỏa sâu rộng bởi lẽ đó là tư tưởng vì hòa bình,
công lý, vì tình hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc, là sự kết hợp hài hoà
đoàn kết để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhân loại tiến bộ với
thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả theo tinh thần thuỷ chung, trong sáng. Người
thường căn dặn: giúp bạn chính là giúp mình.
Là anh hùng
giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đồng thời là chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, “góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội (…), những
tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc
khẳng định bản sắc của dân tộc mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết
lẫn nhau”. Những người yêu chuộng hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội trên toàn
thế giới khâm phục, ngưỡng mộ Chủ tịch Hồ Chí Minh vì Người là hiện thân cho
tình anh em bốn biển và thông qua những hoạt động không mệt mỏi, những cống
hiến xuất sắc của Người đối với cộng đồng quốc tế, nhân loại tiến bộ hiểu nhiều
hơn, ủng hộ và hết lòng giúp đỡ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc
Việt Nam anh hùng. Đáp lại tình cảm và sự giúp đỡ quốc tế quý báu đó, trước khi
qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có tâm nguyện thay mặt nhân dân Việt Nam đi thăm
và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các nước bầu bạn khắp
năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam.
Thế giới ngày
nay đã có nhiều thay đổi. Nhân loại đang chứng kiến sự cùng tồn tại, hợp tác và
đấu tranh giữa các quốc gia có chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Toàn cầu hóa
cùng sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ và sự biến đổi khắc
nghiệt của khí hậu và những hiểm hoạ chung đang và sẽ đặt trước nhân loại những
vận hội và thách thức mới. Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu
hướng lớn, chủ đạo; các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau trong sự tùy thuộc
về lợi ích và yêu cầu chung tay giải quyết những vấn đề toàn cầu. Tuy nhiên, sự
phục hồi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và sự gia tăng cuộc cạnh tranh ảnh hưởng,
quyền lực, tài nguyên… vẫn là những nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến mâu thuẫn và xung
đột khu vực và quốc tế không thể xem thường.
Trong bối
cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tiếp tục kế
thừa, phát triển tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tê.ë
Việt Nam đang và sẽ là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế (13), vừa kiên quyết giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vừa làm tròn nghĩa vụ
và trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Một thế giới
hòa bình, thịnh vượng, một cộng đồng quốc tế hữu nghị, hiểu biết, tôn trọng lẫn
nhau trên tinh thần anh em, bè bạn – đó là mong muốn và phấn đấu suốt đời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là ước nguyện của dân tộc Việt Nam, một dân tộc
khao khát, yêu chuộng hòa bình, đạo lý nhân nghĩa thủy chung và cũng là một dân
tộc sẵn sàng đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ
hòa bình, độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.
Giữ
gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình
Đảng Cộng sản
Việt Nam
là thành viên đặc biệt của Mặt trận dân tộc thống nhất, là hạt nhân đóng vai
trò lãnh đạo, tổ chức, hướng dẫn hoạt động của Mặt trận. Sự đoàn kết, thống
nhất của Đảng tác động rất lớn đến việc tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc, đoàn kết quốc tế. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan
tâm sâu sắc đến công tác xây dựng Đảng, nói chung, đến việc củng cố, tăng cường
sự đoàn kết, nhất trí của Đảng, nói riêng. Trong bản Di chúc lịch sử, với tư
cách là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đúc kết những suy nghĩ trăn trở cả một đời về Đảng, xem đó là
công việc quan trọng trước hết để dặn lại những người đồng chí của mình. Người
viết: ”Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các
đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Người dặn dò, trong Đảng thực hành
dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phêâ bình; phải
có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ
gìn Đảng thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ
thật trung thành của nhân dân.
Hơn bốn mươi
năm đã trôi qua, những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá
trị lý luận và thực tiễn. Tuyệt đại bộ phận những người cộng sản Việt Nam đã
giữ đúng lời thề khi vĩnh biệt vị Lãnh tụ thiên tài và vô cùng kính yêu của
mình: Hết lòng hết sức giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng, tăng cường sức
chiến đấu của Đảng, làm hạt nhân cho khối đoàn kết toàn dân, bảo đảm cho sự
nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam hoàn toàn thắng
lợi. Tuy nhiên, trong tiến trình cách mạng và đổi mới, do tác động của những
tàn dư tư tưởng phong kiến, thực dân chưa bị quét sạch, tâm lý tiểu nông, sản
xuất nhỏ chưa được khắc phục; do tính chất lâu dài, gian khổ, phức tạp của thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; do sự kích thích, cám dỗ của mặt trái cơ chế
thị trường và hội nhập quốc tế chưa được phòng ngừa, ngăn chặn; do sự kích động
chống phá tinh vi và hiểm độc của các thế lực thù địch chưa bị đánh bại và do
cả những thiếu sót trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ
chức, một bộ phận cán bộ, đảng viên không chịu tu dưỡng, rèn luyện đã bị tha
hóa, biến chất. Đã có biểu hiện dao động, hoài nghi đường lối, chủ trương của
Đảng; đã xuất hiện tư tưởng công thần, địa vị, cục bộ, bè phái; đã có hiện
tượng đam mê, tranh giành quyền lực, chạy chức, chạy quyền… Những tiêu cực đó
đã ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, hạn chế sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Để đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, tạo bước đột phá trong phát triển đất nước, những
năm tới Đảng Cộng sản Việt Nam phải dành nhiều công sức tạo bước chuyển biến rõ
rệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch về chính trị, tư tưởng, tổ chức,
đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo
khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực.
Đây là nhiệm
vụ then chốt có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân
dân Việt Nam.
87 năm trước,
Nhà văn Xô viết Oxíp Manđenxtam đã viết trên báo Ogoniok về Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh với một dự cảm tốt đẹp: ”Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa,
không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”. Kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
bên thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chính là dịp để những
người cộng sản Việt Nam, một lần nữa, ôn lại những di sản tư tưởng vô giá của
Người Thầy vĩ đại, để tin tưởng vững bước vào tương lai./.
Hồ
Chí Minh sớm có tư tưởng tiên phong mở cử
Nguyễn
Mạnh Cầm
Nguyên
Ủy viên Bộ Chính trị,
nguyên Phó Thủ tướng chính phủ,
Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao
Từ
rất sớm, Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng tiên phong theo xu hướng mở cửa, đa
dạng hóa quan hệ với các nước, thu hút đầu tư, thúc đẩy quan hệ buôn bán với
nước ngoài.Ngay từ đầu tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho những
người đứng đầu các nước Anh, Trung Quốc, Mỹ, Liên Xô và Liên hợp quốc nêu rõ
chính sách của Việt Nam là thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác, mời các nhà
đầu tư, các nhà kỹ thuật nước ngoài vào kinh doanh tại Việt Nam, sẵn sàng mở
các cảng, sân bay và đường giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế,
chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của
Liên hợp quốc.
Trong
suốt hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Việt Nam luôn nêu cao ngọn cờ hòa bình, đưa ra nhiều sáng kiến hòa bình
đồng thời đẩy mạnh hoạt động ngoại giao làm cho dư luận thế giới thấy được bản
chất của tình hình Việt Nam, chiến tranh xâm lược của thực dân, đế quốc và luận
điệu hòa bình giả dối của chúng.
Trong
thư gửi cho người đứng đầu nhà nước và chính phủ của gần 70 nước trên thế giới
trình bày tình hình chiến tranh Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Trải
qua hơn 20 năm chiến tranh, hơn ai hết nhân dân Việt Nam rất thiết tha với hòa
bình để xây dựng đời sống của mình. Hồ Chí Minh không đề cập hòa bình và chiến
tranh một cách trừu tượng. Trong thư gửi Đại hội Nhân dân Việt Nam bảo vệ hòa
bình, Người nêu rõ phong trào hòa bình phải gắn liền với phong trào độc lập dân
tộc.
Người
luôn lấy hòa bình hữu nghị và đạo lý làm tiêu chí để phân biệt bạn thù, phân
biệt dân tộc với bọn phản động, hiếu chiến trong chính phủ của đối phương, luôn
nêu cao ngọn cờ hòa bình, tập hợp rộng rãi nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới
chống lại các thế lực gây chiến tranh xâm lược. Đó là nét đặc trưng của “ngoại
giao tâm công” Hồ Chí Minh. Thực hiện đường lối “ngoại giao tâm công” với tinh
thần đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo, ta đã tranh thủ
được một mặt trận rộng rãi nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ
xâm lược.
Đối
với Người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai
làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta là kẻ thù... Phải yêu Tổ quốc,
yêu nhân dân. Phải có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn
và phải làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết. Đối
với nước Pháp và Mỹ, Hồ Chí Minh phân biệt nhân dân với các chính phủ cầm
quyền, để tranh thủ lực lượng tiến bộ và thúc đẩy phong trào phản chiến của
nhân dân các nước này, cô lập lực lượng hiếu chiến.
Hồ
Chí Minh chủ trương tập hợp lực lượng rộng rãi. Theo Người, không có khối
phương Đông và khối phương Tây, mà chỉ có những người yêu chuộng hòa bình và có
những kẻ chủ trương chiến tranh.
Quan
điểm về đa dạng hóa quan hệ quốc tế, làm bạn với tất cả các nước dân chủ đã
hình thành trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ rất sớm. Đây là một tư tưởng vượt thời
đại xét trong bối cảnh phân cực sâu sắc của chính trị quốc tế từ sau Chiến
tranh Thế giới thứ hai.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ
và không gây thù oán với một ai. Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui lòng hợp
tác thật thà và bình đẳng với Việt Nam.
Chủ
nghĩa yêu nước và tinh thân dân tộc cũngthấm đượm trong tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh. Điểm then chốt để “neo” thế giới quan của Hồ Chí Minh vẫn là chủ
nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc và đi cùng với nó là tư tưởng đặt lợi ích dân
tộc lên trên hết. Phân tích tình hình thế giới là để giúp Người nhìn ra mối dây
liên hệ giữa Việt Nam với thế giới và đánh giá đặc điểm quan hệ quốc tế là để
giúp tìm lối đi cho con thuyền cách mạng Việt Nam.
Từ
rất sớm, Hồ Chí Minh đã có tư tưởng tiên phong theo xu hướng mở cửa, đa dạng
quan hệ, thu hút đầu tư, thúc đẩy buôn bán với nước ngoài. Đối với Người, khoa
học là để phục vụ cách mạng và cụ thể hơn là phục vụ sự nghiệp giải phóng dân
tộc, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng dân giàu nước mạnh. Như
vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh - vốn đã mạnh bởi cơ sở khoa học của nó - lại càng
mạnh hơn vì đã dựa được vào sức mạnh của truyền thống dân tộc và giành được
tính chính danh vì phục vụ lợi ích dân tộc.
Hồ
Chí Minh nhiều lần khẳng định tiến lên chủ nghĩa xã hội phải từng bước phát
triển kinh tế và văn hóa - xã hội; nâng cao đời sống vật chất của xã hội phải
đồng thời với nâng cao đời sống tinh thần của con người; vấn đề không chỉ là
sản xuất ra nhiều của cải, mà điều quan trọng hơn là chất lượng của cải phải
ngày càng cao, và làm sao nâng cao được chất lượng sống cho nhân dân. Người cho
rằng, chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội mà dân không được hưởng hạnh phúc thì
chủ nghĩa xã hội đó cũng không có nghĩa lý gì.
Trong
hệ thống các yếu tố của phát triển, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến chủ thể
của quá trình phát triển - Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của một đảng cộng sản
chân chính, trí tuệ và sáng tạo là yếu tố đầu tiên và cũng là yếu tố cuối cùng
có tính quyết định đối với sự định hướng và xây dựng một xã hội mới. Bởi theo
Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của nhân dân, của cách mạng; mục
đích của Đảng không có gì khác là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. Đó cũng thật sự là mục tiêu của bất kỳ một triết lý phát triển nào
nhằm mục tiêu phát triển xã hội bền vững..
Ngày
nay, với chủ trương xây dựng và chấn hưng đất nước, coi xây dựng kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,
thực chất là Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện triết lý phát triển theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là văn hoá đạo đức của Người.
Hơn
nữa, với chủ trương tiến hành Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, rõ ràng Đảng ta đã thật sự thấm nhuần quan điểm phát triển
xuất phát từ cách tiếp cận với văn hoá đạo đức, lấy đạo đức cách mạng làm gốc
của người cách mạng chân chính.
Triết
lý phát triển theo chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh gắn liền với bản chất chế độ
ta, gắn liền với những thành tựu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam mà Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đang ra sức phấn đấu theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng
có nghĩa là triết lý hành động theo chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh chỉ có thể
trở thành hiện thực khi mục tiêu cách mạng theo con đường Hồ Chí Minh đã chọn
được thực hiện thành công ở nước ta.
PHÁT
HUY BÀI HỌC SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM TRONG CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Trần
Thị Thu Hương
PGS, TS, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,
Tổng Biên tập Tạp chí Lịch sử Đảng,
Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc
ta, làm thay đổi cả vận mệnh của dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân
Việt Nam. Nhận định về thắng lợi vĩ đại của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã
đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân,
đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh
phúc”
Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi đầu tiên của một dân tộc
thuộc địa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã giành được chính quyền về tay
nhân dân. Vì vậy, thắng lợi đó không chỉ mở ra một thời đại mới trong lịch sử
dân tộc Việt Nam, mà còn đánh dấu kỷ nguyên độc lập, chủ quyền của các dân tộc
bị áp bức dưới chế độ thực dân. Một sử gia người Anh - Tô-mát Hót-kin (Thomas
Hodgkin) đã đánh giá: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một sự kiện
quan trọng nhất trong lịch sử thế giới sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Đó là cuộc
cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, một Đảng chỉ mới ra đời được mười lăm năm.
Đó là cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền của chế
độ thuộc địa. Nó đã nổ ra trong một thời điểm lịch sử kết thúc cuộc Chiến tranh
thế giới thứ hai... Như vậy, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự bắt đầu
của một thời kỳ mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu
nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa” .
Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 - biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc
Thành
công của Đảng về lãnh đạo phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong đấu tranh giành
chính quyền cách mạng, trước hết là trong hoạch định đường lối cách mạng.
Với
chủ trương, chính sách đúng đắn phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của mọi
tầng lớp nhân dân, ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và được bổ
sung, hoàn thiện xuyên suốt trong quá trình chuẩn bị để tập hợp lực lượng cho
Cách mạng Tháng Tám, thể hiện rõ nét nhất là quyết định thành lập Mặt trận Việt
Minh theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám (tháng 5-1941). Ngày
25-10-1941, Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ nêu
cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc. Tuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh “chủ trương
liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già
trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau
mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn’’; đồng thời khẳng định: “Coi quyền lợi
dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay
đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn
đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập’’
Bốn
mươi bốn điểm trong Chương trình của Mặt trận Việt Minh là một hệ thống các
chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục, xã hội, ngoại giao; những
chính sách cụ thể đối với các tầng lớp công nhân, nông dân, binh lính, trí
thức, công chức, học sinh, phụ nữ, tư sản, địa chủ,… Tinh thần cơ bản của
chương trình này là “cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước:
1.
Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập;
2.
Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do’’
Chương
trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh sau đó được đúc kết thành 10 chính sách
lớn được thực hiện ở khu giải phóng Việt Bắc và được Đại hội Quốc dân Tân Trào
thông qua tháng 8-1945, trở thành chính sách cơ bản sau này của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Cái tên Việt Nam độc lập
đồng minh rất rõ rệt, thiết thực và hợp với nguyện vọng toàn dân. Thêm vào đó,
chương trình giản đơn, thiết thực mà đầy đủ của Mặt trận gồm có 10 điểm như bài
ca tuyên truyền đã kể:
Có
mười chính sách bày ra,
Một
là ích quốc, hai là lợi dân” .
Đó
chính là cơ sở quan trọng để đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng dân tộc.
Cùng
với chủ trương đoàn kết, tập trung nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phù hợp với
khát vọng của toàn thể dân tộc, đi đôi với việc chăm lo củng cố khối liên minh
công nông, Đảng ta rất coi trọng việc đoàn kết, tập hợp các lực lượng khác:
thanh niên, phụ nữ, học sinh, trí thức, tiểu thương, tư sản, địa chủ…, kịp thời
đưa ra hình thức tổ chức thích hợp, đa dạng nhằm tập hợp đông đảo lực lượng
nhân dân.
Nhận
thức đúng và đầy đủ về vị trí của các giai cấp và các tầng lớp trong quá trình
xây dựng Mặt trận Việt Minh, từ cuối năm 1941 đến năm 1942, các hội Công nhân
cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Quân nhân cứu quốc, Thanh niên
cứu quốc, Tự vệ cứu quốc... đã được thành lập. Các tổ chức phản đế đều được
chuyển thành các tổ chức cứu quốc. Mặt trận Việt Minh phát triển mạnh mẽ ở
nhiều vùng nông thôn và thị xã, không những có cơ sở rộng khắp ở trong nước mà
còn có cơ sở trong Việt kiều ở nước ngoài. Những người Việt kiều yêu nước ở Vân
Nam (Trung Quốc) thành lập Hội giải phóng Việt Nam. Cuối năm 1942, sau khi đã
liên lạc với lực lượng cách mạng trong nước, Hội giải phóng Việt Nam được coi
như một bộ phận của Mặt trận Việt Minh.
Sang
năm 1943, trước sự chuyển biến mới về thời cuộc, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
đã họp ở Võng La, quyết định mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị nhận định: “Ở Đông Dương hiện nay thiếu
một phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh niên học sinh. Do đó,
cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là
tính cách toàn dân tộc’’. Hội nghị đề ra chủ trương liên minh với tất cả các
đảng phái, các nhóm yêu nước ở trong và ngoài chưa gia nhập Mặt trận Việt Minh,
đẩy mạnh công tác vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ,
tư sản, địa chủ yêu nước, các dân tộc thiểu số, Hoa kiều, lập ra Hội Văn hóa
cứu quốc ở các thành phố nhằm đoàn kết các nhà trí thức và các nhà văn hóa.
Nguyên tắc củng cố và phát triển Mặt trận là: “Phải luôn luôn củng cố và phát
triển những tổ chức của thợ thuyền, dân cày vì đó là xương sống của Mặt trận
dân tộc thống nhất chống Nhật - Pháp. Nhưng đồng thời phải hết sức phát triển
các tổ chức cứu quốc của thanh niên, phụ nữ và tư sản, địa chủ, tiểu thương,
v.v.. Nếu không, Mặt trận dân tộc không có tính cách toàn dân mà chỉ có tính
cách công nông’’.
Chính
vì vậy, Đảng ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trong cao
trào kháng Nhật, cứu nước và trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Nhạy
bén trong việc xác định rõ kẻ thù, mục tiêu cách mạng trong từng thời điểm, kịp
thời đề ra khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, đáp ứng nguyện vọng bức thiết của
quần chúng.
Ngày
12-3-1945, đúng ba ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương đã
ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Đảng ta đã kịp thời
chỉ rõ kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương
sau cuộc đảo chính là phát-xít Nhật và quyết định thay khẩu hiệu “Đánh đuổi
phát-xít Nhật - Pháp’’ bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát-xít Nhật’’. Chỉ thị cũng
nhấn mạnh đến việc phải mở rộng cơ sở của Mặt trận Việt Minh, nhằm đoàn kết,
tập hợp mọi lực lượng nhân dân vào cao trào kháng Nhật cứu nước. Đó chính là
thực hiện chính sách đoàn kết, phân hóa hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ mọi lực
lượng có thể tranh thủ. Một tháng sau khi Chỉ thị ra đời, ngày 12-4-1945, Mặt
trận Việt Minh ra lời kêu gọi Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị quan chức ái
quốc Việt Nam và Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị huynh thứ ái quốc. Nội dung
các lời kêu gọi ấy đã góp phần đẩy nhanh quá trình phân hóa và tranh thủ một bộ
phận vào lúc cách mạng bùng nổ.
Khẩu
hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn đói’’ đã đáp ứng nguyện vọng khẩn thiết, cấp
bách trước sự sinh tồn của đại đa số nhân dân, là một nghệ thuật phát động quần
chúng, hình thức đấu tranh thích hợp nhất lúc bấy giờ để đưa hàng triệu quần
chúng đi từ hình thức đấu tranh thấp đến hình thức đấu tranh cao, từ đấu tranh
cho quyền lợi kinh tế hằng ngày đến giác ngộ chính trị. Chính vì vậy, phong
trào phá kho thóc, giải quyết nạn đói của quần chúng, không chỉ có ý nghĩa kinh
tế trước mắt, mà còn có nội dung chính trị sâu sắc. “Khẩu hiệu này đưa ra giữa
lúc nạn đói khủng khiếp đang diễn ra ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, đáp ứng nguyện
vọng cấp bách nhất của quần chúng, do đó, đã thổi bùng ngọn lửa căm thù trong
đông đảo nhân dân và phát động quần chúng vùng dậy với khí thế cách mạng hừng
hực tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền’’
Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc,
của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Toàn dân nổi dậy, cả nước đồng lòng đứng
lên. Từ chiến khu về đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị, rồi cả thành thị
cùng nông thôn nhất tề nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân.
Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng sinh động về sức mạnh đồng thuận của
cả dân tộc Việt Nam, khi được Đảng khơi dậy, tổ chức tập hợp với tinh thần tự
lực, tự cường. Thắng lợi đó đã khẳng định trong thực tế lòng tin tuyệt đối của
quần chúng nhân dân vào đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Bài
học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện
nay
Bài
học về phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân, đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng
dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám vẫn còn giữ nguyên giá trị trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
Thực
tiễn cách mạng Việt Nam 66 năm qua là hiện thực sinh động chứng tỏ: phát huy
sức mạnh toàn dân tộc là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng, là
sự tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm của Đảng trong điều
kiện lịch sử mới.
Qua
30 năm tiến hành kháng chiến chống ngoại xâm (1945 - 1975), truyền thống quý
báu ấy đã được nâng lên tầm cao mới, trở thành động lực và sức mạnh chủ yếu của
dân tộc ta, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đưa đến những
thắng lợi vĩ đại của cách mạng nước ta từ năm 1930 đến nay.
Vào
những năm 80 của thế kỷ XX, đứng trước tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng, đổi mới trở thành yêu cầu có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh dân
tộc. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã hoạch định đường lối đổi mới đất nước,
chỉ rõ bốn bài học kinh nghiệm lớn, trong đó bài học đầu tiên là: “Trong toàn
bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc’’, xây
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Thực hiện Nghị quyết Đại
hội VI, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám đã ra Nghị quyết 8b (ngày
27-3-1990) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân, trong đó nhấn mạnh quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đến
Đại hội VII của Đảng (năm 1991), lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định lấy khối
liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Điều đó thể hiện: Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về vị trí,
vai trò của các giai tầng trong xã hội, nhất là của tầng lớp trí thức đối với
sự nghiệp cách mạng nước ta trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ phát triển mạnh mẽ và kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong
quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Cương lĩnh (năm 1991) nêu năm bài học
lớn được rút ra từ thực tiễn cách mạng, trong đó có bài học: “sự nghiệp cách
mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm
nên thắng lợi lịch sử” và “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết
toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế”. Đại hội VII
của Đảng chỉ rõ: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Quan hệ giữa Đảng với nhân dân bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn
đối với sự nghiệp cách mạng. Nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta
chính là ở chỗ Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân”; dân chủ “vừa là một mục
tiêu vừa là một động lực của công cuộc đổi mới xã hội ta”.
Tổng
kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã rút ra một trong những nguyên nhân
trọng yếu dẫn đến thành công của Đảng trong hoạch định đường lối và thực hiện
đường lối đổi mới: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân
là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng
đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà
công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”.
Đại
hội VIII tiếp tục khẳng định tinh thần của Đại hội VII và nêu cao phương châm:
Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công nhân -
nông dân - trí thức làm nền tảng, đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam dù sống ở trong nước hay đang định cư ở nước ngoài; có cơ chế và cách
làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Đại
hội IX có bước phát triển cụ thể hơn nữa về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành
phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng
và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên
trong đại gia đình Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài”; “lấy mục tiêu
giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh làm điểm tương đồng”; “trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đại hội IX của Đảng nhấn
mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp
hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”Như vậy, trong thời kỳ mới,
quan điểm nhất quán của Đảng ta là: đại đoàn kết toàn dân, đồng thuận mọi giai
tầng, trên cơ sở giải quyết hài hòa các lợi ích, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực của toàn xã hội, là động lực chủ yếu để phát triển đất nước trong
giai đoạn cách mang mới.Nhằm cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội IX, Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, coi đại đoàn
kết toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới,
tư duy về đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta được phát triển lên một bước
mới. Cụm từ “Đại đoàn kết toàn dân” được bổ sung, hoàn chỉnh thành “Đại đoàn
kết toàn dân tộc” với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết, đoàn kết không chỉ đối với
nhân dân ta ở trong nước mà còn với cả cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước
ngoài. Từ tư duy đổi mới về vai trò của nhân dân, về vấn đề dân tộc trong thời
kỳ mới, Đại hội X của Đảng khẳng định: “đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Sau
25 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đại hội XI của Đảng
tiếp tục khẳng định: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố thứ hai, sau
thành tố về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đây
chính là hai thành tố quan trọng, quyết định thực hiện thành công những nhiệm
vụ căn cốt nhất của toàn Đảng và toàn dân ta trong nhiệm kỳ 2011 - 2015, đó là:
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát huy sức mạnh toàn dân
tộc là một thành tố được nêu trong chủ đề của #ại hội IX và Đại hội X, nay
khẳng định lại không chỉ để nhấn mạnh mà còn nhằm làm sáng tỏ hơn bản chất và
nội dung của vấn đề thông qua thực tiễn đổi mới. Sức mạnh toàn dân tộc là sức
mạnh của cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại; sức mạnh của các thành phần kinh tế, các lực lượng chính trị, xã hội,
các dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt
Nam định cư ở nước ngoài có cùng “mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành
phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của
dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập
hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”.
Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng là sự kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta, thể hiện sự nhất quán kiên định tư tưởng chính trị và
phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh - tư tưởng chính trị và phương pháp cách mạng
dựa trên sự bố trí các lực lượng xã hội, trên cơ sở vận dụng nhuần nhuyễn quan
điểm giai cấp, quan điểm dân tộc vào thực tiễn Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng chỉ rõ: “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một
người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân”
Phát
huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám, với những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, trước những vận
hội mới, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức đặt ra trước yêu cầu phát
triển nhanh và bền vững của đất nước, hơn bao giờ hết, Đảng cần tiếp tục phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững và củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân và sự đồng thuận của toàn xã hội trong tiến trình xây đựng đất nước
hiện nay. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng cần có những quyết sách nhằm động viên
và tổ chức mọi tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước và lòng tự hào
dân tộc, đưa đất nước vượt qua thách thức.
Với
những thành quả cách mạng Việt Nam đã đạt được, dưới sự lãnh đạo đầy bản lĩnh,
trí tuệ của một chính Đảng Cộng sản được lý luận Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh soi rọi, với sự quản lý điều hành năng động, sáng tạo của Nhà nước
cách mạng Việt Nam, với tài năng, trí thông minh, đức tính cần cù, ý chí và
khát vọng vươn lên mãnh liệt của nhân dân ta, tiếp tục vận dụng bài học phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh lịch sử mới, chúng ta có
đầy đủ cơ sở để vững tin vào sự hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong
giai
đoạn hiện nay
Nguyễn
Túc
Ủy
viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam
Đoàn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta được lưu truyền
qua các thế hệ. Tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung, tương thân tương ái
tiếp tục được phát huy trong thời gian qua đã trở thành chất kết dính, gắn bó
các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh - Người khởi xướng, xây dựng và hết lòng chăm lo cho khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. (Ảnh tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Những
quan điểm, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết dân tộc về Mặt trận dân tộc
thống nhất ở thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế được tổng kết và nâng cao tầm
nhận thức trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được luật hóa bằng Hiến pháp và các luật,
đã từng bước đi vào cuộc sống đã khơi dậy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân
trên mọi việc của đời sống xã hội. Những kết quả đạt được trong các cuộc vận
động xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong sạch, vững mạnh, đã góp phần làm cho “khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp
tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước có nhiều khó
khăn, thách thức”. Đúng như Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc khóa XII của Đảng đã nhận
định.
Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức thành viên các cấp đã phát động,
triển khai nhiều phong trào, nhiều cuộc vận động thi đua yêu nước có ý nghĩa
thiết thực được các tầng lớp nhân dân nhiệt tình hưởng ứng, đã đóng góp có hiệu
quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trong xóa đói giảm
nghèo, xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh xã hội… Trước tình hình của chủ
quyền quốc gia bị xâm phạm, các tầng lớp nhân dân ở trong nước cũng như người
Việt Nam đang làm ăn và sinh sống ở nước ngoài bằng những việc làm cụ thể đã
thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc, ý chí quyết tâm đấu tranh bảo vệ chủ quyền
thiêng liêng và bất khả xâm phạm của Tổ quốc.
Có
thể khẳng định rằng: Dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, các
giai cấp, các tầng lớp nhân dân đoàn kết trong MTTQ Việt Nam đã có những đóng
góp to lớn vào thành quả chung của đất nước, vào việc củng cố, tăng cường và mở
rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Giai
cấp công nhân Việt Nam: Phát triển nhanh về số lượng, đa dạng hóa về ngành
nghề. Với 11 triệu người, chiếm hơn 25,8% lực lượng lao động xã hội, giai cấp
công nhân có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, giữ vai trò nòng cốt
trong việc tiếp thu và làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, góp
phần quan trọng vào việc hình thành các ngành công nghiệp hiện đại và sự tăng trưởng
của nền kinh tế. Điều đáng lưu ý trong giai cấp công nhân hiện nay là trên ba
phần tư công nhân đang làm việc trong các khu vực tư nhân và khu vực kinh tế có
vốn đầu tư của nước ngoài, một bộ phận đang gặp khó khăn về đời sống vì những
năm gần đây do khủng hoảng kinh tế thế giới tác động đến đất nước ta, nên không
có việc làm.
Mong
muốn của công nhân hiện nay là việc làm, đời sống dân chủ và công bằng xã hội.
Làm sao để mọi công nhân đều có việc làm ổn định, có nhà ở, đời sống văn hóa và
điều kiện học hành cho con em, nhất là trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Giai
cấp nông dân: Lực lượng đông đảo nhất của đất nước. Với gần 20 triệu người,
chiếm hơn 47% lực lượng lao động xã hội, nông dân nước ta phát huy truyền thống
cần cù, sáng tạo, vượt khó, tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đã phấn
đấu không ngừng tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Trong
tình hình kinh tế gặp khó khăn, nông dân, nông nghiệp đã góp phần quan trọng ổn
định đời sống xã hội, hỗ trợ đắc lực cho công nghiệp, dịch vụ. Băn khoăn, lo
lắng của nông dân hiện nay là thu nhập thấp, đại bộ phận hộ nghèo là nông dân,
đặc biệt là nông dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa; chính sách hỗ trợ sản xuất
kinh doanh cho nông dân, nông nghiệp còn hạn chế; đầu ra cho sản phẩm nông
nghiệp không ổn định; việc làm, đào tạo nghề, đặc biệt là miền núi, vùng cao
còn nhiều khó khăn.
Đội
ngũ trí thức: Phát triển nhanh về số lượng và đa dạng hóa về ngành nghề. Với
4,9 triệu người, chiếm hơn 11,5% lực lượng lao động xã hội, trí thức đi đầu
trong các hoạt động về khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, giáo dục và đào
tạo, phát triển kinh tế tri thức tạo ra nhiều công trình, sản phẩm khoa học có
giá trị cao, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế. Mong muốn của trí thức hiện nay là phấn đấu để sớm giải quyết được sự hẫng
hụt về trí thức đầu đàn và có những điều kiện cần thiết để phát huy hết khả
năng sáng tạo của mình cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Đội
ngũ doanh nhân Việt Nam: Với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần đã
hình thành nhanh chóng đội ngũ doanh nhân với vai trò ngày càng lớn trong sản
xuất kinh doanh, tạo việc làm. Với khoảng 2 triệu người hoạt động trong hơn 346.000
doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân giữ vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế,
tạo việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Mong muốn của doanh nhân là
môi trường đầu tư cần thông thoáng hơn, có chính sách phát triển doanh nghiệp
và sản phẩm, dịch vụ mới.
Bên
cạnh những doanh nhân làm ăn chân chính, đã xuất hiện những “doanh nghiệp ma”,
doanh nghiệp làm ăn bất chính như: sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng, nhập
khẩu trái phép, lừa đảo, trốn thuế, trốn bảo hiểm xã hội, gây ô nhiễm môi
trường…
Đội
ngũ công chức, viên chức: Cả nước hiện có khoảng 2,4 triệu người, chiếm 5,6%
lực lượng lao động xã hội, đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó
khăn, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng
lực và hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng các nhu cầu chăm sóc y tế, giáo dục,
đào tạo và văn hóa của nhân dân.
Về
cuộc sống, bên cạnh số đông sống bằng đồng lương, cuộc sống còn nhiều khó khăn
do giá cả leo thang vì đồng tiền trượt giá, đã xuất hiện một bộ phận bằng nhiều
việc làm, nhiều biện pháp để có thêm thu nhập, kể cả những việc làm bất chính,
vi phạm đạo đức của người cán bộ và pháp luật của nhà nước. Mong muốn của đa số
công chức, viên chức là tăng lương để đảm bảo cuộc sống và có chương trình về
nhà ở.
Đồng
bào các dân tộc thiểu số: Hiện có hơn 13 triệu người, chiếm 14,4% dân số cả
nước. Đồng bào đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp phát triển kinh tế, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo đảm quốc phòng an ninh. Đời sống
vật chất và tinh thần của đồng bào ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, tỷ lệ
hộ nghèo trong các dân tộc thiểu số còn khá cao, nhất là ở Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam bộ.
Đồng
bào các tôn giáo: Hiện có khoảng 24 triệu người, chiếm gần 27% dân số cả nước,
tiếp tục phát huy truyền thống đạo gắn với đời, đồng hành cùng dân tộc, thực
hiện “Sống tốt đời đẹp đạo”, nhiệt tình tham gia các phong trào thi đua yêu
nước, nỗ lực trong sản xuất, kinh doanh hoạt động nhân đạo từ thiện, phát huy
những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, đóng góp tích cực vào
sự nghiệp phát triển của đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận bị kẻ xấu lôi
kéo, lợi dụng vào các hoạt động gây mất trật tự, ổn định xã hội.
Cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài: Với hơn 4,5 triệu người sống và làm việc ở
109 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới là một bộ phận không thể tách rời
của dân tộc Việt Nam, trong những năm qua, đã có nhiều nỗ lực trong lao động,
học tập, chấp hành pháp luật nước sở tại, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nêu
cao tinh thần đoàn kết gắn bó với quê hương đất nước, tích cực đóng góp, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm cầu nối góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập, tăng
cường quan hệ hữu nghị hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới. Cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài mong muốn được quan tâm giúp đỡ nhiều hơn để
giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, nhất là tiếng nói và chữ viết
cho thế hệ trẻ, phát huy hơn nữa khả năng đóng góp của đội ngũ trí thức, doanh
nhân cho phát triển đất nước.
Những
đóng góp to lớn của các giai cấp, tầng lớp xã hội nêu trên là những yếu tố cực
kỳ quan trọng, là động lực chủ yếu đảm bảo ổn định chính trị - xã hội và thúc
đẩy đất nước phát triển.
Cùng
với những chuyển biến và tiến bộ xã hội, nhiều vấn đề mới đã và đang nảy sinh
trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới. Đó là xã hội, giai cấp, tầng lớp,
nhóm dân cư đang trong quá trình phân hóa. Và cùng với sự phân hóa đó là sự
chênh lệch ngày càng lớn về mức thu nhập và hưởng thụ giữa các vùng miền, giữa
người đương chức, người về hưu, giữa thành thị và nông thôn… Sự phân hóa giàu
nghèo có chiều hướng gia tăng và đang ảnh hưởng lớn đến đại đoàn kết dân tộc.
Vì vậy, trong đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng
cường như Dự thảo báo cáo chính trị đã nêu song chưa thật vững chắc và đang
đứng trước những thách thức không thể xem thường.
Như
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã nhận
định: Lòng tin của một bộ phận nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và khả năng
quản lý của Nhà nước có phần giảm sút. Nhân dân, nhất là các đồng chí cán bộ
cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ nghỉ hưu – những người sống chết vì lý tưởng
xã hội chủ nghĩa, cả đời phấn đấu cho độc lập, tự do – rất bất bình trước những
bất công xã hội, trước tình trạng tham nhũng quan liêu, xa dân; kỷ cương phép
nước không nghiêm; đạo đức có lúc, có nơi, có bộ phận xuống cấp; tội phạm, tệ
nạn xã hội, tai nạn giao thông không giảm; việc chấp hành chủ trương, chính
sách không đến nơi đến chốn; tình hình chạy chức, chạy bằng, chạy tội…. vẫn còn
tồn tại dưới những hình thức tinh vi hơn; một số cán bộ nói nhiều, làm ít, lời
nói không đi đôi với việc làm…
Thiết
nghĩ, để đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thực sự là
nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dịp Đảng
đang tiến hành đại hội các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Đảng cần làm cho cả hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên, trước hết là
cấp ủy đảng, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất. Cụ thể cần nắm
vững quan điểm cơ bản, đồng thời cũng là những định hướng lớn về phát suy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay là:
1.
Lợi ích cơ bản của nhân dân, của dân tộc ta ngày nay là độc lập, tự do và có
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lợi ích đó được thể hiện cụ thể hằng ngày trong mọi
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Vì vậy, củng
cố, tăng cường đoàn kết toàn dân tộc không thể chung chung mà phải gắn chặt với
việc đảm bảo các lợi ích đó.
2.
Một trong những động lực thúc đẩy nhân dân tăng cường đoàn kết trong tình hình
hiện nay là quyền làm chủ đất nước của nhân dân phải được tôn trọng. Pháp luật
phải đảm bảo để nhân dân thực sự là người chủ, thực sự làm chủ như Hiến pháp
(sửa đổi, bổ sung) đã quy định.
3.
Thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân không chỉ là trách nhiệm
của Đảng và Nhà nước, mà còn là trách nhiệm của MTTQ, các tổ chức chính trị -
xã hội và của toàn dân. Do đó, qua hoạt động của mình, MTTQ, các tổ chức chính
trị - xã hội phải không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để góp
phần làm cho mối liên hệ đó luôn luôn bền chặt, ý Đảng phù hợp với lòng dân.
4. Trong giai đoạn hiện nay, các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có tác dụng trực tiếp và
quyết định đến kết quả xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, MTTQ, các tổ
chức chính trị - xã hội mà Đảng đã đề ra trong Quyết định 217/QĐ của Bộ Chính
trị để các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước sát cuộc
sống, đáp ứng lợi ích của nhân dân – cũng có ý nghĩa là lợi ích của Nhà nước.
Kiên
trì thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, nhân
nghĩa, khoan dung của tổ tiên, cùng nhau hợp sức xây dựng cho được một xã hội
đồng thuận cao trên tinh thần cởi mở, độ lượng, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định
và phát triển toàn diện và bền vững của đất nước./.
Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới
|
|
Vũ Trọng Kim
Ủy
viên T.Ư Đảng, Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký
Ủy
ban Trung ương MTTQ Việt Nam
|
|
Trong Dự thảo
Báo cáo Chính trị, cụm từ “Đại đoàn kết toàn dân tộc” được nhắc 21 lần và có
tám lần nói về “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”. Không phải ngẫu nhiên từ
thời kỳ dựng nước đến nay, đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc lại được đề cao như vậy. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được là cơ bản, Dự thảo Báo cáo Chính trị cũng chỉ rõ, “sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc, có nơi chưa phát huy được vai
trò, sức mạnh của nhân dân”.
|
Trong thời kỳ
mới, để thấm nhuần quan điểm của Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, chúng ta phải quán triệt sâu sắc những bài học về đại đoàn kết toàn
dân tộc đã được khẳng định trong thực tiễn. Trước hết, phải quán triệt và
thực hiện cho được quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước lấy dân làm gốc.
Gốc có vững cây mới bền”. Bước vào thời kỳ mới, quan điểm “Dân là gốc” phải
được coi là nền tảng của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Sự nghiệp
đổi mới đất nước là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, nên mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ
dân, dựa vào dân để thực hiện.
Đảng ta xác
định, dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới,
thể hiện mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thực
hiện dân chủ chính là điều kiện quan trọng để phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Nguyễn Trãi từng nói “Đẩy thuyền cũng
là dân, lật thuyền cũng là dân”. Trong bài báo “Dân vận” nổi tiếng viết năm
1949, Bác Hồ đã nói về dân chủ một cách giản dị nhưng rất rõ ràng, chuẩn xác:
“Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn
đều của dân”; “... thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải
quyết mọi khó khăn”. Xã hội càng phát triển thì đòi hỏi trình độ dân chủ
trong xã hội càng cao. Mặt khác, dân chủ là một trong những tiêu chí quan
trọng nhất để đo lường sự phát triển lành mạnh của xã hội bởi lẽ bảo đảm và
phát huy dân chủ là bảo đảm tôn trọng và thực hiện quyền con người, quyền và
lợi ích của người dân trên tư cách người chủ của xã hội. Dân chủ phải đi liền
với bảo đảm trật tự, kỷ cương, tuân thủ pháp luật. Vì vậy, dân chủ trong điều
kiện mới phải thể hiện trong các thể chế, thiết chế của Đảng, Nhà nước và của
cả hệ thống chính trị cũng như trong các quan hệ xã hội trong đó phải đề cao
tính công khai, minh bạch, tăng cường đối thoại, lắng nghe ý kiến nhân dân.
Có dân chủ thật sự mới có đoàn kết thật sự, mất dân chủ thì không có đoàn
kết. Xây dựng nền dân chủ để từ đó phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân
trong xây dựng và phát triển đất nước chính là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, trong đó MTTQ Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng.
Để xây dựng xã
hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trong đó con người có
cơ hội phát triển toàn diện, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, một
trong các điều kiện cần thiết là phải bảo đảm dân sinh. Những năm qua, Đảng
và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội, nhất là thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách để ổn
định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, thu nhập của người dân không
ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
còn những hạn chế. Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ,
sự chênh lệch trong hưởng thụ các giá trị của đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội... giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với vùng đồng bằng, đô thị còn lớn;
giảm nghèo chưa bền vững; khoảng cách giàu - nghèo, sự chênh lệch trong thu
nhập ngày càng gia tăng... Đây là những vấn đề cần chia sẻ, cần khắc phục,
không để mâu thuẫn phát sinh. Vì vậy, giải quyết tốt vấn đề dân sinh cần được
xem là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong thời kỳ mới. Vấn đề cốt lõi là cần
tập trung xây dựng và thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã
hội, nhất là các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, lấy kinh tế tư nhân
làm động lực phát triển.
Nền tảng để
xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc còn là sự ổn định về
chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo đảm sự phát triển hài hòa trên các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong hoạch định chính sách và quản lý xã
hội, phải tránh tư tưởng nôn nóng trong tăng trưởng mà quản lý phát triển xã
hội không tốt, đồng thời phải từng bước khắc phục tình trạng bất bình đẳng,
đạo đức xã hội xuống cấp, đời sống văn hóa có những biểu hiện thiếu lành
mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, xa lạ với truyền thống dân tộc. Phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc còn là bảo đảm sự đồng tâm, hợp lực trong
đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và chủ quyền biển đảo thiêng liêng, thể hiện khí
phách dân tộc như trong bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” (Sông núi nước Nam),
bài thơ có giá trị như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước nhà.
Kế tục và phát
huy vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam qua các thời kỳ,
MTTQ Việt Nam ngày nay chủ trương phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào
dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài
nước, không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, quá
khứ, ý thức hệ và chính kiến, điều quan trọng là tán thành công cuộc đổi mới,
giữ vững độc lập, thống nhất chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu trên,
phải tăng cường và mở rộng MTTQ Việt Nam như Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu, không
chỉ dừng lại ở phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi lẽ, Mặt trận
được tăng cường mới xứng đáng với sứ mệnh lịch sử là tổ chức liên minh chính
trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu, trong đó Đảng vừa là thành
viên, vừa lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận được tăng cường mới đủ sức làm được vai
trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; mới
đáp ứng yêu cầu là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đủ sức làm trách
nhiệm giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước; làm nòng cốt là trung tâm tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam yêu
nước.
Trong thời kỳ
mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đi đôi với tăng cường đoàn
kết quốc tế. Với trách nhiệm của mình, Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức
thành viên tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhân dân theo phương
châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả”, góp phần tăng cường tình hữu
nghị và đoàn kết, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên
thế giới. Tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ và nhân dân các nước trên thế
giới trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia. Phát huy vai trò của cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp có hiệu quả vào các hoạt động đoàn
kết, hữu nghị, thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác phát triển.
Khi đã thấu
suốt những quan điểm, bài học về đại đoàn kết toàn dân tộc đã được minh chứng
trong thực tiễn, được khẳng định về mặt lý luận và thực hiện một cách cụ thể,
có những quyết sách rõ ràng với tấm gương minh chủ thì sẽ tạo được sự đồng
thuận và lòng tin vững chắc trong nhân dân, từ đó tinh thần đại đoàn kết toàn
dân tộc sẽ được hội tụ, phát huy được sức mạnh thần kỳ trong công cuộc đổi
mới, xây dựng và phát triển đất nước.
|
Thực hiện những lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết toàn dân tộc
Nguyễn
Thạc Hân
Ban
Dân vận Trung ương
Chủ tịch Hồ Chí
Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn, người sáng lập, rèn luyện
Đảng ta, luôn chăm lo xây dựng củng cố phát triển khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Đó là chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Trước hết Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định nhân dân ta vốn có lòng yêu nước nồng nàn và đoàn kết chặt chẽ, đấu
tranh anh dũng để bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc. Truyền thống ấy đã trở
thành thuần phong mỹ tục của dân tộc.Trong bài nói chuyện với đại biểu nhân dân
Thanh Hoá ngày 13-6-1957, Người nhấn mạnh: "Cần xây dựng và phát triển
thuần phong, mỹ tục. Các đồng chí nước bạn sang ta nói nhân dân Việt Nam rất
cần cù, giản dị. Thuần phong, mỹ tục là đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau sản
xuất tiết kiệm, vì vậy nên cần phát triển thuần phong mỹ tục".
Chủ tịch Hồ Chí
Minh kế thừa và phát huy truyền thống "nhiễu điều phủ lấy giá gương, người
trong một nước phải thương nhau cùng" của dân tộc ta và những tinh hoa tư
tưởng đoàn kết của nhân loại tiến bộ, nâng lên thành chân lý, thành chính sách,
thành chiến lược cách mạng.
Về nội dung, tư
tưởng "đoàn kết, đại đoàn kết" của Hồ Chí Minh rất phong phú, nhiều
vẻ bao gồm tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc (đoàn kết cả nước, đoàn kết toàn
dân không bỏ sót một người dân nào, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong Mặt
trận dân tộc thống nhất...), đoàn kết quốc tế. Phát biểu tại phiên họp bế mạc
kỳ họp thứ tư, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá I, ngày 26-3-1955,
Người chỉ rõ: "Chính sách đối nội trước mắt của ta là: Đoàn kết toàn dân,
thi đua sản xuất... Chính sách ngoại giao của ta là: đoàn kết chặt chẽ với nhân
dân các nước bạn". Nói chuyện tại Lớp nghiên cứu chính trị khoá II, trường
Đại học nhân dân Việt Nam, ngày 8-12-1956 Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
"Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân".
Trong thư gửi đồng bào cả nước, ngày 6-7-1956, Người khẳng định: "Đường
lối đấu tranh của chúng ta hiện nay là toàn dân từ Nam đến Bắc, đoàn kết rộng
rãi và chặt chẽ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam". Trong bài nói tại Đại
hội liên hoan phụ nữ "Năm tốt" ngày 30-4-1964, khi giải thích khái
niệm "gia đình", Người cũng nhắc đến đoàn kết: Theo nghĩa cũ thì gia
đình chỉ giới hạn hẹp trong một cái nhà, cái sân... Theo nghĩa mới thì gia đình
rộng rãi hơn, tốt đẹp hơn. Thí dụ những người cùng lao động trong nhà máy,
trong một cơ quan, trong một hợp tác xã... đều phải đoàn kết thương yêu nhau
như anh em trong một gia đình. Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em
trong một gia đình. Ngay trong "Kính cáo đồng bào" viết ngày 6-6-
1941, khi đất nước ta còn chìm trong nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến
đoàn kết dân tộc: "Trong lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết
thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ đế quốc và bọn việt gian đặng cứu
giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng". Nói về đoàn kết trong Đảng, trong
bản "Di chúc" viết ngày 10-5-1969, Người chỉ rõ: "Đoàn kết là
một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung
ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn
con ngươi của mắt mình". Chủ tịch Hồ Chí Minh không những nêu rõ nội dung
của tư tưởng đại đoàn kết mà còn chỉ ra tầm quan trọng, những nguyên tắc, yêu
cầu, phương pháp, cách thức đoàn kết. Nói chuyện tại Lớp chỉnh huấn trung cao
của Bộ Quốc phòng tháng 5 năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Bây giờ
còn một điểm rất quan trọng cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì con
cháu đẻ ra đều tốt: Đó là đoàn kết". Mà "nền gốc của đoàn kết là:
đoàn kết của đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác".
Theo Hồ Chí
Minh, đoàn kết là một chính sách lớn đối với toàn dân tộc,
đoàn kết để đấu
tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây đựng
nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân
dân thì ta phải đoàn kết với họ.
Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu yêu cầu của đoàn kết là phải đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ. Đoàn kết
giữa Chính phủ và nhân dân. Đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân với nhau. Đoàn
kết giữa đồng bào toàn quốc từ Bắc tới Nam. Nói rộng hơn nữa: đoàn kết giữa
nhân dân ta và nhân dân các nước bạn. Đoàn kết chặt chẽ lực lượng trong nước
với ngoài nước... Nói chuyện với đại diện Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Tĩnh, ngày
15/6/1957, Người khẳng định "Đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất.
Phải đoàn kết giữa lương và giáo, giữa quân và dân, giữa Bắc và Nam"...
Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku, ngày 19-4-1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính
phủ chúng của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ
để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta". Đoàn kết chặt chẽ và rộng
rãi không những là yêu cầu tất yếu của cách mạng Việt Nam mà còn là một chính
sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, một tầm nhìn về tương lai của dân tộc. Ngay
từ năm 1946, trong thư gửi đồng bào Nam Bộ, Người có những lời khuyên rất thấm
thía: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay
cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong
mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều
dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng
con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng
bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ như thế mới thành
đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang".
Chủ tịch Hồ Chí
Minh đòi hỏi một sự đoàn kết thật sự có chiều sâu, có hiệu quả, "không
phải đoàn kết ngoài miệng, mà đoàn kết bằng việc làm, đoàn kết bằng tinh thần,
đoàn kết thực sự". Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Hà Tây ngày
10-2-1967, Người nhắc nhở cán bộ "từ tỉnh đến huyện, đến xã phải đoàn kết,
đoàn kết thực sự, làm sao tự mình nêu gương và giáo dục cho đảng viên, đoàn
viên, cán bộ giữ gìn, phát triển đạo đức cách mạng, làm sao cho nhân dân biết
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm".
Người giải thích: "Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập
trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu
tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình
trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân". Về mối quan hệ giữa phê bình,
tự phê bình và đoàn kết, Người giải thích: Phê bình, tự phê bình tốt nghĩa là
xuất phát từ đoàn kết mà phê bình và tự phê bình, phê bình và tự phê bình để đi
đến đoàn kết hơn nữa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh ý
nghĩa, tác đụng to lớn của đoàn kết. Người nhiều lần khẳng định "Đoàn kết
là lực lượng mạnh nhất của chúng ta". "Đoàn kết là một lực lượng vô
địch". "Đoàn kết là sức mạnh". Đoàn kết là sức mạnh vô địch của
chúng ta". "Đoàn kết là lực lượng tất thắng". Thật là một chân
lý giản dị và sáng tỏ.
Theo Hồ Chí
Minh, đoàn kết, đại đoàn kết là nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam, giúp
dân tộc ta "thành công, đại thành công" trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. Trong lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm cách mạng tháng Tám và ngày Độc
lập năm 1951, Người nhấn mạnh: "Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân
ta là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ
tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ.
Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta cách mạng thành công, giành được độc lập. Nhờ lực
lượng ấy mà sức kháng chiến của ta ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và
dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn thiếu thốn, đói khổ quyết một lòng
đánh tan quân giặc cướp nước. Nhờ lực lượng ấy mà với gậy tầm vông và súng hoả
mai lúc đầu, chúng ta liên tiếp thắng địch". Trong Báo cáo về dự thảo Hiến
pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá I,
ngày 18-12-1959, Người khẳng định: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân
tộc bị áp bức đã đánh bại cuộc xâm lược của một đế quốc hùng mạnh, đã giành lại
độc lập cho dân tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày, đưa lại quyền dân chủ thực
sự cho nhân dân. Thắng lợi đó là do lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu
tranh anh dũng của quân và dân ta, do toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ trong Mặt
trận Dân tộc thống nhất và chính quyền nhân dân ta dựa trên nền tảng liên minh
công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng...". Trong bài
nói tại Hội những người Ấn nghiên cứu các vấn đề quốc tế, ngày 7-2-1958, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Nhờ đại đoàn kết mà trong bao nhiêu thế kỷ, nhân
dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập, tự đo của mình. Nhờ đại đoàn kết mà nhân
dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm cách mạng Tháng Tám thành
công và đã kháng chiến đến thắng lợi. Nhờ đại đoàn kết toàn dân mà nước Việt
Nam chúng tôi nhất định sẽ thống nhất".
Nhờ có chiến lược đại đoàn kết
đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng nước ta hơn 70 năm qua đã
giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, phát huy được sức mạnh của
toàn dân tộc đánh thắng được hai đế quốc to là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cả
nước hoà bình, thống nhất đi lên CNXH, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Để tiếp tục phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đưa
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết TW7 (khóa IX) về
"phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ văn minh" vào cuộc sống, cần thực thi mạnh mẽ, có
hiệu quả những chủ trương chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, xây dựng những
định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, phát huy mạnh
mẽ vai trò của chính quyền Nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn
kết toàn dân tộc.
Thứ ba, mở rộng và đa
dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Thứ tư, tăng cường công
tác chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận
xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước.
Thứ năm, xây đựng tổ
chức Đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để
Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Comments[ 0 ]
Post a Comment