TTĐĐK Hồ
Chí Minh là một hệ thống các luận điểm, nguyên tắc, phương pháp, biện pháp giáo
dục, tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng nhằm phát huy đến mức cao nhất sức
mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc,
dân chủ và CNXH. Nói cách khác đó là vấn đề có tầm chiến lược nhằm củng cố, mở
rộng và tăng cường lực lượng cách mạng trong đấu tranh GPDT, GPGC, GPCN
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC
1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
Theo thống kê của đề tài KX02 – 07
thì có 1809 lần xuất hiện cụm từ
đoàn kết và đại đoàn kết trong 839
bài viết trên tổng số gần 2000 bài
viết của Hồ Chí Minh, chiếm gần 44% trong
tổng số những bài nói, bài viết của Người. Trong đó 16 lần trong “Sửa đổi lối làm việc”, 17 lần trong bài
nói tại buổi “Khai mạc Đại hội thống nhất
Mặt trận Việt Minh”, 19 lần trong “Diễn
văn kỷ niệm quốc khánh” năm 1959.
Điều này chứng tỏ rằng ĐĐKDT là
một tư tưởng lớn của HCM. Người đã nêu lên những luận điểm có tính chất chân
lý, khẳng định vị trí, vai trò to lớn của ĐĐKDT.
a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự
thành công của cách mạng
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ĐĐK là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên
suốt tiến trình CMVN.
Nói
chuyện tại Hội nghị thống nhất Mặt trận Liên Việt (1951), Người nói: “Đoàn kết
của ta không những rộng rãi mà còn phải đoàn kết lâu dài, đoàn kết là một chính
sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”.
Trong các cuộc cách mạng tư sản Anh,
Pháp, Mỹ, nhằm lật đổ giai cấp phong kiến thống trị, GCTS đã dùng chiêu bài
đoàn kết để kêu gọi nhân dân đứng lên làm cách mạng, nhưng khi cách mạng thành
công, họ quay lại đàn áp nhân dân. Vì vậy, trong các cuộc CMTS, đoàn kết chỉ là
một thủ đoạn chính trị.
Hay trong cuộc đấu tranh giai cấp lâu
dài, các đảng chính trị thường có sự liên minh với nhau trong từng thời kỳ nhằm
đạt tới những mục tiêu trước mắt, những lợi ích cục bộ nào đó. Khi cục diện
chiến tranh thay đổi, mục tiêu thay đổi thì các liên minh đó cũng tan vỡ để
chuyển sang một hình thái đấu tranh mới. Đó chỉ là một thủ đoạn chính trị nhất
thời. Các khối đoàn kết trong mặt trận nhân dân ở Pháp và Tây Ban Nha…thời kỳ
1936-1939 được thành lập theo nghị quyết ĐH VII QTCS cũng chỉ là một vấn đề có
tính sách lược.
Còn trong TTHCM về xây dựng, củng cố
và phát triển khối ĐĐKDT thì đại đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính trị nhất
thời mang tính sách lược mà là một vấn đề lâu dài, xuyên suốt toàn bộ quá trình
cách mạng từ độc lập dân tộc đi lên CNXH, trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc cũng
như trong xây dựng và phát triển đất nước.
“Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta còn
phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”
Đại đoàn kết là vấn đề lâu dài, nhất
quán. Tuy nhiên, trong từng thời kỳ,
từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và
phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau,
nhưng ĐĐKDT vẫn được Người
nhận thức là một chiến lược bất di bất dịch.
VD: Chiến lược xuyên suốt của chúng ta là độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH. Nhưng ở thời kỳ chưa giành được độc lập dân tộc ta có cách tập
hợp khác. Thời kỳ 36-39: giương cao ngọn cờ dân chủ, dân sinh ...
- Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh,
là then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh,
muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Giữa
đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô của đoàn kết quyết
định quy mô,mức độ của thành công.
Là một
người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc mình,
Hồ Chí Minh thấy được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay
đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta
với tư tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em
hòa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan
thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của
lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận như
những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán
đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu nước, chống pháp liên tục nổ
ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Hồ Chí Minh đã nhận ra
được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền
bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đọan
này.
Tại sao Đế quốc Pháp có ưu thế về
vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải thua một Việt Nam nghèo
nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào Việt Nam đã đoàn kết
như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng:
Quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước. Chỉ có một
mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự
đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ
quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó,
chúng cũng phải thất bại”.
Chính sức mạnh của lực lượng
toàn dân đoàn kết làm nên thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám. Như Chủ
tịch Hồ Chí Minh phân tích:
“ Vì sao có cuộc thắng lợi đó?
Một phần là vì tình hình quốc tế
thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân
tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Nam
để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại
hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó”.
Người đã khái quát: “Sử ta dạy cho ta
bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự
do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.
Trong quá trình Người nghiên cứu khảo
nghiệm cuộc đấu tranh của các dân tộc trên TG, Người nhận ra rằng: “Các dân tộc
thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến
thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên
kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức
và chưa biết tổ chức…”
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
thành công đã đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành dân chủ cho nhân dân. Từ chỗ chỉ
biết đến CMT10 theo cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con
đường và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại
cho PTCM thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực
lượng quần chúng công nông binh đông đảo để giành và giữ chính quyền CM.
“Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là
sức mạnh, là then chốt của thành công”;“Đoàn
kết là điểm mẹ, điểm này mà tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”, “Biết đồng sức,
biết đồng lòng, việc gì khó cũng làm xong”. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”.
b. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng, của dân tộc
Một trong
những mục tiêu hàng đầu của CMVN là xây dựng khối ĐĐKDT, nhằm phục vụ cho sự nghiệp GPDT,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- ĐĐK dân tộc được quán triệt trong mọi đường lối, chính sách của Đảng trong
mọi giai đoạn cách mạng
Điều này được Hồ Chí Minh thay mặt
Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc trong Lời kết thúc buổi ra mắt của “Đảng Lao động Việt Nam” ngày 3/3/1951:
“Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là:
Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.
Để thực
hiện được mục tiêu đó, Đảng ta và HCM đã coi ĐĐKDT là nhiệm vụ hàng đầu trong mọi giai
đoạn cách mạng. Trong buổi nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách
mạng XHCN, Người chỉ rõ: “Trước cách mạng
tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào
các dân tộc thiểu số hiểu được mấy việc. Một là Đoàn kết, Hai là làm cách mạng
hay kháng chiến để đòi độc lập”. Và sau hiệp định Giơnevơ, nhiệm vụ là: “Một là Đoàn kết, hai là xây dựng chủ nghĩa
xã hội, ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Chính vì
vậy, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm coi sức
mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Đồng thời, Người lưu ý rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp,
nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tôn giáo, do đó phải đoàn kết nhân dân
vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc đó, Người yêu cầu Đảng,
Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với các giai cấp,
tầng lớp trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi cơ bản của
nhân dân lao động, làm “mẫu số chung” cho sự đoàn kết.
- ĐĐK dân tộc là yêu cầu khách quan
của chính quần chúng trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, do vậy, đại đoàn kết
còn là sự nghiệp của quần chúng, vì quần chúng.
Tư tưởng
Hồ Chí Minh về ĐĐKDT không
chỉ là sự phản ánh truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những đòi hỏi khách quan
của sự nghiệp cách mạng, mà còn là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và
vì những quyền lợi thiết thực của quần chúng. Trong nhận thức của Hồ Chí Minh,
đại đoàn kết không phải là chủ trương, sách lược xuất phát từ ý muốn chủ quan
của lực lượng lãnh đạo. Nếu là nhu cầu của lực lượng lãnh đạo, ĐĐK sẽ chỉ là
một thủ đoạn nhằm đạt được một ý đồ chính trị của một tổ chức hay tập đoàn xã
hội. Còn nhìn nhận ĐĐK như là một nhu cầu, một đòi hỏi khách quan của bản thân
quần chúng trong cuộc đấu tranh tự giải phóng.
Khi đó, lực lượng lãnh đạo cách mạng
chỉ có sứ mệnh thức tỉnh, hướng dẫn quần chúng chuyển những nhu cầu tự nhiên,
tự phát của họ về đoàn kết thành nhu cầu tự giác, thành đại đoàn kết hiện thực,
có tổ chức để trở thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
Những quan
điểm trên về đại đoàn kết là cơ sở để Hồ Chí Minh đề ra những nguyên tắc và
phương pháp đại đoàn kết dân tộc trên con đường cứu nước và dựng nước, đồng
thời, những quan điểm trên cũng cho thấy sự nhạy bén chính trị và tầm nhìn sâu
rộng của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của sức mạnh ĐĐKDT.
Chúng ta vừa được tìm hiểu vai trò to lớn của ĐĐKDT Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Vậy, khối ĐĐKDT đó bao gồm những thành phần, giai cấp, tầng lớp nào trong xã hội? Và
trong một xã hội luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa các giai
cấp, tầng lớp; Vậy Hồ Chí Minh đã làm thế nào để có thể đoàn kết được tất cả
các thành phần xã hội đó vào khối ĐĐKDT. Đây được đánh giá là
một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng ta cùng
sang phần 2.
2. Lực lượng của đại đoàn kết dân tộc
a. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn
kết toàn dân
Nhận
thức sâu sắc lý luận của CNML về vai trò của quần chúng nhân dân và kế thừa
truyền thống đoàn kết của dân tộc, HCM luôn coi dân là gốc, là nguồn sức mạnh
vô địch, vô tận, lực lượng chủ yếu quyết định thành công của cách mạng. Cho
nên, nói đến ĐĐKDT trong TTHCM là nói đến ĐĐK toàn dân.
Để hiểu
rõ luận điểm này, trước hết ta tìm hiểu khái niệm Dân trong TTHCM
- Khái niệm DÂN
“Dân” trong
tư tưởng Hồ Chí Minh có nội hàm rất rộng.
Người đã dùng khái niệm này để chỉ mọi con dân nước Việt, Con Rồng cháu Tiên,
không phân biệt dân tộc thiểu số với đa số, người tín ngưỡng với người không
tín ngưỡng, không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo.
Mác nói rằng: nhân dân là những người có khả năng đi
với cách mạng đến cùng, trước hết là GCCN và một bộ phận nông dân – dân nghèo
(địa chủ là không đi với cách mạng đến cùng). Như vậy, tiêu chí nhân dân của Mác là đi với cách mạng đến
cùng.
Nhân dân trong
quan niệm của Lênin đó là đa số
những người bị bóc lột, không chỉ là công nhân mà còn đa số những người bị bóc
lột khác. Tiêu chí nhân dân của Lênin là tiêu chí bị bóc lột.
Hồ Chí Minh đã kế thừa toàn bộ tư
tưởng đúng đắn và cách mạng đó của chủ nghĩa Mác – Lênin. Hơn thế nữa, trong
điều kiện từ một nước thuộc địa, muốn giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân
dân, cần phải có một quan niệm về nhân dân rộng rãi hơn, phù hợp với đặc điểm,
truyền thống dân tộc và cách mạng Việt Nam.
Nhân dân trong
tư tưởng Hồ Chí được thể hiện rõ nét trong tác phẩm Thường thức chính trị năm
1953. Người đưa ra quan niệm nhân dân
gồm 4 giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những cá
nhân yêu nước khác. Như vậy, nhân dân của HCM là những người yêu nước, gồm cả
những người bóc lột và những người bị bóc lột. Tư sản dân tộc là những người
bóc lột, nhưng nó không gắn với CNĐQ. Như vậy, nhân dân là lực lượng vô cùng
rộng lớn. Đây cũng là luận điểm mới của
HCM, bổ sung vào học thuyết về ĐCS của CNML.
Như vậy,
Dân trong TTHCM vừa là một tập hợp
đông đảo quần chúng vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai
đều là chủ thể của ĐĐKDT.
Theo ý
nghĩa đó, ĐĐKDT cũng có
nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh
chung. Đây chính là mục
tiêu của ĐĐKDT. Người nói: Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc
lập và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có
tài, có đức, có sức có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn
kết với họ.
Với tinh
thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm ĐĐKDT để định hướng cho việc
xây dựng khối ĐĐK toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng bao gồm mọi giai
cấp, dân tộc.
Đoàn kết dân tộc trong tư tưởng HCM là đoàn kết toàn dân, tuy nhiên toàn dân là
khối rất đông bao gồm hàng chục triệu con người, vậy, muốn xây dựng khối ĐĐKDT
rộng lớn như vậy thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối ĐĐKDT và những
lực lượng nào tạo nên nền tảng đó.
- Nòng cốt của khối ĐĐK toàn
dân là liên minh công nông trí thức
Lý luận
về liên minh công - nông và các tầng lớp nhân dân lao động khác là một trong
những nội dung cơ bản của CNML. Từ thực tiễn CMVN và xu thế phát triển của thời
đại, dựa trên nền tảng của CNML, HCM đã nhận thức và lựa chọn chuẩn xác con
đường vận động của CMVN là con đường CMVS, gắn liền ĐLDT và CNXH. Động lực của cách
mạng là khối ĐĐK của toàn thể NDLĐVN mà nòng cốt là liên minh công – nông - trí
thức, đó là lực lượng cơ bản, là điều kiện quyết định để thực hiện hoá mục tiêu
ĐLDT và CNXH.
Phát biểu tại Hội nghị thống nhất Mặt trận Liên Việt, Người
nói: “Đoàn kết tức là phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân
là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền, gốc
của đại đoàn kết”.
? Vì sao phải lấy liên minh công – nông
làm nòng cốt trong khối ĐĐKDT?
Vì: Trong
điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm tuyệt đại đa số. Với
chính sách khai thác thuộc địa, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời, tuy số
lượng ít, trình độ kỹ thuật còn thấp nhưng họ đã có đầy đủ tính chất của GCVS
hiện đại, đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ, triệt để cách mạng và cùng
với nông dân, họ là lực lượng chủ yếu sản xuất ra mọi của cải cho xã hội và
trực tiếp tham gia cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Dưới
chính sách cai trị tàn bạo của đế quốc, phong kiến và tư bản, công nhân và nông
dân bị áp bức bóc lột hết sức nặng nề. Vì vậy, cần phải hợp tác và liên minh
hai giai cấp lớn nhất, mạnh nhất này lại thì kẻ thù sẽ bị cô lập, mất dần cơ sở
xã hội và cuộc đấu tranh phá hoại của chúng sẽ bị thất bại. Vì vậy, liên minh
công – nông là hạt nhân, là cơ sở của khối ĐĐKDT.
Trong
cuốn “Đường kách mệnh”, HCM đã đánh
giá công - nông là người chủ cách mệnh, là lực lượng nòng cốt của ĐĐK để thực
hiện nhiệm vụ cách mạng vì:
-
Là vì công - nông bị áp bức nặng hơn
-
Là vì công - nông đông nhất nên có sức
mạnh hơn hết
-
Là vì công - nông là tay không chân rồi,
nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới cho nên họ
gan góc. Vì những cớ ấy nên công nông là gốc cách mệnh”.
Quan niệm này của Hồ Chủ tịch đã vượt xa những quan điểm
truyền thống đương thời, mở ra một bước đột phá trong nhận thức và tư duy lý
luận về xác định các lực lượng cách mạng; nó là sự tổng kết sâu sắc toàn bộ
kinh nghiệm thực tiễn các phong trào cách mạng trong nước và các cuộc cách mạng
điển hình từng diễn ra trên thế giới. Đặc biệt là CMT10 Nga, cuộc cách mạng XHCN
đầu tiên trên thế giới, đã khẳng định vai trò quyết định của khối quần chúng
công – nông, “dân chúng công, nông là gốc cách mệnh”; “Cách mệnh Nga dạy cho
chúng ta rằng, muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm
gốc”
Tuy nhiên,
khi đã có nền tảng vững, gốc tốt thì phải kết hợp với nhiều yếu tố khác, yếu tố
đó là các tầng lớp nhân dân khác. Về sau, xuất phát từ thực tiễn khách quan,
Người đã nêu ra sự cần thiết phải có liên minh công - nông - trí để làm nền
tảng cho khối ĐĐKDT.
Quán triệt những
chỉ dẫn của các nhà kinh điển của CNML, HCM đã vận dụng sáng tạo tư tưởng:
“cách mạng rất cần trí thức”, “chỉ có GCCN mới thật yêu chuộng trí thức”…
Theo Hồ
Chí Minh, trí thức giữ vai trò đặc biệt quan trọng không những trong kháng
chiến mà cả trong xây dựng, bởi chúng ta giành ĐLDT, bắt tay vào xây dựng chế
độ mới trong tình trạng hơn 90% dân số mù chữ.
Bên cạnh
đó liên minh công – nông – trí thức còn là một nhu cầu của cuộc sống, nó phản
ánh một xu hướng khách quan: sự xích lại gần nhau giữa lao động chân tay và lao
động trí óc.
Xuất phát
từ nhận thức cho rằng “dưới chủ nghĩa xã
hội, khoa học là tài sản chung của toàn dân chứ không phải là tài sản riêng của
một nhóm người nào”, Hồ Chí Minh đã khái quát mối liên kết giữa các giai
tầng xã hội bằng một phương châm ngắn gọn nhưng lại hàm chứa những nội dung lớn
đó là: công - nông trí thức hoá; trí thức hóa công – nông.
Người
chỉ rõ: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng XHCN, lao động trí
óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết
chặt chẽ thành một khối”.
Ngoài ra
Người còn lưu ý đến các tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc cũng có vai trò
không nhỏ trong khối ĐĐKDT.
Những quan điểm chủ yếu của Hồ Chí
Minh về liên minh công – nông – trí thức trong khối ĐĐKDT là cơ sở tư tưởng để xây dựng, củng
cố, tăng cường và phát huy sức mạnh của nó trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Tổng
kết thực tiễn CMVN trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là thực tiễn của hơn 20 năm
đổi mới, Đảng ta luôn xác định liên minh công - nông - trí thức là cơ sở
của khối ĐĐKDT và là động
lực chủ yếu giữ vững, phát triển đất nước theo định hướng XHCN vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX khẳng định: “Động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của toàn xã hội”
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH(bổ sung và phát triển năm 2011) Đảng ta cũng xác
định nhiệm vụ: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng,
đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý
báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành
công”.
b. Điều kiện thực hiện đại đoàn kết
dân tộc
- Để xây dựng khối ĐĐK toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân
nghĩa – đoàn kết của dân tộc.
Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc,
đoàn kết dân tộc của dân tộc VN đã được hình thành và củng cố, tạo thành một
truyền thống bền vững. Đối với mỗi người dân, yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết
đã trở thành một tình cảm tự nhiên, in đậm dấu ấn cấu trúc xã hội truyền thống,
tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ: Gia đình – làng xã - quốc gia.
Và lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc ta cũng chỉ rõ: chỉ có thể bảo vệ được nền ĐLDT khi xây dựng được khối ĐĐKDT. Bằng sức mạnh của ĐĐK, cha ông ta đã làm nên những chiến
thắng vẻ vang trong lịch sử dân tộc như trận Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa.
Ngược lại, vì quyền lợi ích kỷ của mình mà triều Nguyễn đã không tập hợp được
sức mạnh của toàn dân để ngăn chặn cuộc xâm lược của thực dân Pháp cuối thế kỷ
XIX, và kết cục là triều Nguyễn đã đánh mất nền độc lập của dân tộc.
Từ bài học
lịch sử đó, đầu năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh HCM đã rút ra kết luận: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một
thì nước ta độc lập tự do, trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước
ngoài xâm lấn”. Đây
được coi là một kinh nghiệm vô cùng quý báu để bảo vệ nền độc lập dân tộc và
chấn hưng đất nước.
ĐĐK là một truyền thống quý báu, một
sức mạnh vĩ đại đã được thử thách trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam. Trong suốt quá trình lãnh đạo CMVN, Người đã nhiều lần nhắc nhở
chúng ta cần nhớ đến truyền thống ĐĐK của dân tộc, như: “Dân
ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Người cho rằng, ĐCSVN ngay từ khi ra
đời đã kết hợp chặt chẽ truyền thống ĐĐK của toàn dân với những nguyên lý cách
mạng và khoa học của CNML về đoàn kết, nâng truyền thống đoàn kết của dân tộc
lên một tầm cao mới. Như Hồ Chí Minh đã viết trong “Di chúc”: “Đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”, vì vô cùng quý báu nên
Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi người, nhất là cán bộ đảng viên phải giữ gìn sự đoàn
kết nhất trí “như giữ gìn con ngươi của
mắt mình”.
Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân
tộc và tư tưởng đoàn kết HCMtrong thời đại mới, Đại hội lần thứ IX, ĐCSVN đã
khẳng định: “Kế thừa truyền thống quý báu
của dân tộc, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường
lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”.
- Phải có lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, vào con người
+ Theo Hồ Chí Minh, khoan dung, độ lượng là một nhân tố cơ bản góp phần
vào xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Người cho
rằng, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân
trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ
rộng rãi mọi lực lượng. Người nói: “Sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng
chứa được, vì độ lượng của nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một
chút nước đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp, nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như
cái chén, cái đĩa cạn”.
Người
Việt Nam ta lại có truyền thống “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh kẻ chạy
lại”. Nên đối với những
người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta cần dùng chính sách
khoan hồng, đại độ thuyết phục họ, vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với
họ mà hoàn toàn không định kiến khoét sâu thêm cách biệt, lấy lời lẽ khôn khéo
mà thuyết phục họ.
Người nói: “Năm ngón tay cũng có ngón
dài, ngón ngắn. Nhưng ngắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu
người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi
của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con
Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào
lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành
đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.
Lòng khoan
dung độ lượng của HCM không phải là một sách lược nhất thời, một thủ đoạn chính
trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái và bao dung của dân
tộc, hình thành từ chính cuộc cách mạng mà Người suốt đời theo đuổi. Đó là một
tư tưởng nhất quán, được thể hiện trong đường lối chính sách của Đảng và dân
tộc, qua thái độ và ứng xử của Bác Hồ đối với những người làm việc dưới chế độ
cũ, những người lầm lạc bằng tất cả sự chân thành vì nghĩa lớn của dân tộc, thể
hiện trong tuyên bố nổi tiếng: “Bất kỳ
trước đây họ là thế nào, nếu ngày nay họ thật thà tán thành hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ, nếu họ muốn thật
thà phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân thì chúng ta cần cộng tác với họ”.
Sau khi cách mạng thành công. Với niềm tin vào sự hướng thiện
của con người vì lợi ích tối cao của dân tộc, HCM đã chân thành kêu gọi những
quan đại thần của chế độ cũ vào bộ máy chính quyền Nhà nước mới, tạo điều kiện
để họ có cơ hội đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
VD: Ngày
10/9/1945, Bác đã ký sắc lệnh số 23 mời cựu hoàng Bảo Đại ra làm cố vấn Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ký nhiều sắc lệnh chiêu tập khâm
sai đại thần Phan Kế Toại, Thượng thư Bùi Bằng Đoàn và nhiều quan chức triều
Nguyễn tham gia chính quyền mới.
Đầu năm 1946, theo đề nghị của HCM,
Quốc hội khóa I đã dành 70 ghế không qua bầu cử cho đại biểu của Việt Quốc,
Việt Cách những đảng phái phản động nhằm tập hợp ngay cả những lực lượng chống
đối, không chỉ để vô hiệu hóa họ mà đồng thời còn thể hiện một tấm lòng rộng mở
đoàn kết, mặc dù những năm tháng đó họ đang chống đối quyết liệt chính quyền
cách mạng. Đây là một mẫu mực tuyệt vời về sách lược và cả quốc sách đại đoàn
kết toàn dân, tranh thủ tối đa những lực lượng có thể tranh thủ vì lợi ích lâu
dài.
Cụ Huỳnh – Bác đã mời cụ ra làm việc, giao cho
chức Bộ trưởng bộ nội vụ. Còn ngạc nhiên hơn khi Bác sang Pháp đã giao quyền
Chủ tịch nước cho Cụ Huỳnh với lời dặn: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
Không
những thế, Người còn thu hút được rất nhiều nhân sỹ, trí thức nổi tiếng khác và
cả những trí thức Tây học đang sống trong giàu sang trở về tham gia góp công
sức vào công cuộc kháng chiến kiến quốc. Bởi một lẽ tự nhiên, HCM đã làm cho họ
hiểu rằng, mỗi người chỉ có một quê hương, một nguồn gốc dân tộc. Vì vậy, cho
dù không cùng giai cấp, khác biệt về đảng phái nhưng họ vẫn bắt tay nhau, đoàn
kết chống lại kẻ thù của dân tộc. Với chính sách đoàn kết dân tộc và lòng nhân
ái bao la của Bác Hồ, chúng ta đã làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù,
cảm hóa được nhiều nhân sỹ, trí thức một lòng một dạ đi theo cách mạng.
Đây là một bài học lớn mang tính thời
sự cho các thế hệ hôm nay và mai sau, nhất là trong thời kỳ phát triển như vũ
bão của khoa học, kỹ thuật, khi nguồn lực con người trở thành tài nguyên vô
giá, thành động lực của sự phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì
đoàn kết cộng đồng là nhân tố quan trọng nhất tạo nên sự ổn định trong thế giới
hội nhập, phát triển.
+ Để thực hành ĐK rộng rãi cần có
niềm tin vào nhân dân
Tin dân, dựa vào dân trong ĐĐKDT của HCM chính là sự kế thừa và nâng
cao tư duy chính trị truyền thống dân tộc: “Nước lấy dân làm gốc”, “Chở thuyền
và làm lật thuyền cũng là dân”. Đồng thời nguyên tắc này còn là sự quán triệt
sâu sắc trong nhận thức, tình cảm, hành động nguyên lý macxit “Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng”.
Hồ Chí Minh
khẳng định quan điểm ĐĐKDT 1 cách rộng rãi vì Người có lòng tin ở
nhân dân, tin rằng trong mỗi người, “ai
cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Cái chung để quy
tụ mọi người vào khối ĐĐKDT chính là nền độc lập và thống nhất của
tổ quốc, là cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Dân
là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết.
Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên
nền nhân dân
Dân
là chủ thể của đại đoàn kết.
“Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân, Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.
Dân
là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi
của CM
Dễ trăm lần không dân
cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu
cũng xong
Dân
là chỗ dựa vững chắc của ĐCS, của hệ thống chính trị cách mạng.
Sống và đấu
tranh theo nguyên tắc cốt lõi này, HCM đã trở thành vị lãnh tụ kính yêu của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Lý tưởng cách mạng cao cả của
Người bắt nguồn từ lòng nhân ái bao la, lòng tin vô hạn đối với nhân dân, với
dân tộc. Người yêu thương và tin vào khả năng tiềm tàng của họ, thức tỉnh, giáo
dục con người tự giác đứng lên đấu tranh cho sự nghiệp chính nghĩa của quốc
gia, dân tộc.
3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, ĐĐK là để tạo nên
lực lượng cách mạng, để làm cách mạng xoá bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do
vậy, ĐĐK không chỉ dừng lại ở quan niệm, lời kêu gọi mà phải trở thành 1 chiến
lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó
phải trở thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất, đó chính là MTDTTN
a. Hình thức tổ chức của khối ĐĐKDT là Mặt trận dân tộc thống nhất
Thực hiện ĐĐKDT và xây dựng MTDTTN là hai mặt của một vấn đề,
chúng có quan hệ khăng khít với nhau, nhưng không phải là đồng nhất. Thực hiện ĐĐKDT để tạo nên sức mạnh vô địch chiến
thắng kẻ thù, đó là mục tiêu. Còn mục
tiêu đó có được thực hiện hay không, thực hiện đến mức nào còn phụ thuộc vào
khả năng lôi kéo, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong một tổ chức
rộng rãi, vững chắc của giai cấp lãnh đạo và bộ tham mưu của nó. Trên phương
diện này, tổ chức mặt trận là điều kiện, là phương tiện để thực hiện
mục tiêu.
Trong phần này chúng
ta không nhằm tìm hiểu tư tưởng ĐĐK HCM, mà đi vào mặt thứ hai của vấn đề đó là tổ chức và
xây dựng Mặt trận.
- MTDTTN là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong khối ĐĐKDT
Trở lại lịch sử, ta thấy các cuộc đấu
tranh chống Pháp của nhân dân cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tuy nổ ra nhiều
nhưng các nhà lãnh đạo phong trào chưa biết liên kết, tổ chức lực lượng thành
một chiến tuyến rộng rãi nên đã nhanh chóng bị đè bẹp.
Sự thất bại của các phong trào đã cho
thấy truyền thống đoàn kết muốn tạo nên sức mạnh còn phải biết tổ chức, mà tài tổ chức vốn không phải là thế mạnh
sẵn có của một dân tộc đã bị kìm hãm hàng ngàn năm trong tình trạng nông nghiệp
manh mún, lạc hậu, trì trệ, dân cư quen sống khép kín trong cộng đồng làng xã,
tuy cũng có hội, có phường nhưng phạm vi không vượt ra khỏi luỹ tre làng. Đúng
như Chủ tịch HCM đã nhận định trong thư Kính
cáo đồng bào: “việc lớn chưa thành không phải vì đế quốc mạnh mà vì dân ta
chưa hiệp lực đồng tâm”.
Từ bài học này, ra đi tìm đường cứu nước, sau vấn đề đường lối, HCM đã rất quan
tâm đến vấn đề tổ chức, trong đó có tổ chức Mặt trận.
Cũng như Đảng chính trị, tổ chức Mặt trận là một khái niệm hiện đại,
trước năm 1930 chưa từng xuất hiện trong đời sống chính trị của dân tộc ta. Đảng
chính trị ra đời trước, là sự phản ánh trình độ trưởng thành nhất định của cuộc
đấu tranh giai cấp, dân tộc. Trong quá trình đấu tranh, để lôi kéo quần chúng
về phía mình, các đảng chính trị đã lập ra những tổ chức quần chúng khác nhau
(theo nghề nghiệp, lứa tuổi…) rồi tập hợp lại trong một tổ chức lớn và rộng rãi
hơn với nhiều tên gọi khác nhau như hội đồng minh, hội liên hiệp, liên minh,
liên đoàn…ở ta gọi là Mặt trận. Tuy nhiên cái tên không phải lúc nào cũng phù
hợp với bản chất. Đồng minh những người
cộng sản do Mác và Angghen sáng lập trên cơ sở cải tổ Liên minh những người chính nghĩa (6/1847) thực chất là một Đảng
chính trị, là tiền thân của các đảng công nhân ra đời về sau. Hoặc có Mặt trận
sau khi giành được chính quyền lại biến thành đảng như Phong trào công nhân giải phóng Ănggôla sau đổi thành Đảng lao động Ănggôla.
Trên cơ sở
đúc kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các cuộc vận động cách
mạng trong nước và trên thế giới. TTHCM về MTDTTN được hình thành từng bước. Cả
dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch
khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối
vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn, nếu không thế,
quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là số đông
không có sức mạnh. Thất bại của các phong trào yêu nước trước kia đã chứng minh
điều này. Như Người đã nhận định “Ở Đông Dương, chúng ta có đủ tất cả những cái
gì mà một dân tộc mong muốn, nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ
chức”.
TTHCM về
đoàn kết dân tộc, về vai trò của MTDTTTN được hình thành từ rất sớm, trong quá
trình hoạt động ở Châu Âu, Người đã học được một ít kinh nghiệm về tổ chức khi
tham gia vào Công đoàn lao động hải ngoại
ở Anh, đứng ra tổ chức Nhóm người
Việt Nam yêu nước ở Pari và ở các tỉnh của nước Pháp. Năm 1921, Người sáng
lập ra Hội liên hiệp thuộc địa ở
Pari, xuất bản báo Le’ Paria, hoạt
động rất năng nổ, gần như là linh hồn của tổ chức này.
Khi về tới
Quảng Châu (11/1924), HCM bắt tay ngay vào việc tập hợp những thanh niên yêu
nước có mặt tại đây, thành lập Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, một tổ chức quá độ, tiền mác xít, có nòng cốt là
Cộng sản đoàn nhằm mục đích như Người nói, từ quả trứng Thanh niên ấy sẽ nở ra con chim non cộng sản (Đảng cộng sản).
Trong các
bài giảng tại lớp huấn luyện chính trị Quảng Châu sau được Người tập hợp lại
trong cuốn Đường Cách Mệnh (1927),
Người đã chỉ ra sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc nhưng lại
phải biết tổ chức quần chúng lại trong các hội, các đoàn thể mới tạo ra được
sức mạnh. Trả lời câu hỏi có hội thì lợi gì, không có hội thì hại gì, số báo ra
ngày 10/10/1926 viết: “Người không có tổ chức thì cũng như chiếc đũa lẻ loi, ai
bẻ cũng gãy.Người có đoàn thể thì cũng như nhiều chiếc đũa, cột thành một bó,
không ai bẻ gãy được”.
Phải đến
các Văn kiện của Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930, tư tưởng
về MTDTTN HCM mới được thể hiện hoàn chỉnh trong đó nêu rõ: “Đảng là đội quân
tiên phong của vô sản giai cấp…phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trung nông, Thanh niên, tân
việt…
Tuy nhiên TTHCM
về MTDTTN sau khi được chính thức đưa vào Chính cương, Sách lược đầu tiên của
Đảng đầu năm 1930 không phải ngay một lúc đã được nhận thức và quán triệt đầy
đủ. Người đã kiên trì giữ vững quan điểm của mình, mềm dẻo thuyết phục và đấu
tranh, trải qua kiểm nghiệm và xác nhận của thực tiễn CMVN, tư tưởng đó đã ngày
càng được phát huy và tỏa sáng.
Vì vậy, khi
nhận thấy con đường và sức mạnh cứu nước tiềm ẩn trong lòng dân tộc, HCM đã rất
chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với
từng giai cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, tôn giáo, lứa tuổi, từng
giai đoạn cách mạng… Đó là các Hội Ái hữu, Tương trợ, Công hội, Nông hội, Đoàn
thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Sinh viên, Hội phật giáo cứu quốc, Công giáo, Hội
phản đế đồng minh (1930 - 1931)…và bao trùm nhất là MTDTTN.
- MTDTTN là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, nơi tập hợp mọi
con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những người VN định
cư ở nước ngoài.
MTDTTN là một bộ phận cấu thành của
hệ thống chính trị nước ta. Đó là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện, mang tính chặt chẽ, có tổ chức chứ không phải là một liên minh tạm
thời, lỏng lẻo, mang tính câu lạc bộ. Mặt khác, Mặt trận lại mang tính quần
chúng rộng rãi vì đó là sự liên hiệp tự nguyện của mọi người, mọi tổ chức có nguyện vọng tham gia Mặt trận nếu thừa
nhận Cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận. Tính tổ chức và tính quần chúng tự
nguyện là một đặc trưng nổi bật, làm cho mặt trận có điều kiện tập hợp rộng rãi
các giai tầng trong xã hội, tổ chức và cá nhân, không phân biệt giai cấp, dân
tộc, quá khứ chính trị, tôn giáo, lứa tuổi sinh sống ở trong hay ngoài nước.
- Tuỳ theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng mà có những hình thức
tổ chức mặt trận cho phù hợp.
Trong lịch sử đấu tranh của mình, Đảng
ta đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng MTDTTN. Đó là một chủ trương hết sức
đúng đắn nhằm khơi dậy sức mạnh ĐĐK toàn dân tộc. Ngay từ tháng 11/1930, Ban thường vụ Trung ương
ĐCSĐD đã ra chỉ thị thành lập “Hội phản
đế đồng minh”, rồi “Mặt trận dân
chúng thống nhất đấu tranh phản đế” (6/1936), Mặt trận dân chủ thống nhất” (3/1938)… Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
các tổ chức Mặt trận nói trên đều có chung mục tiêu là đánh đuổi đế quốc, giành
ĐLDT. Mục tiêu này có sức lôi cuốn nhiều lực lượng. Tuy nhiên các tổ chức Mặt
trận trên đây đều có những hạn chế, thiếu sót, Nghị quyết Hội nghị toàn thể
Trung ương 3/1938, Đảng ta đã chỉ rõ những thiếu sót trong cách tuyên truyền,
vận động, hạn chế sự mở rộng MTDTTN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chỉ từ sau khi Nguyễn Ái Quốc về nước
trực tiếp chỉ đạo CMVN, với những bài học về MTTN ở QTCS và từ những thí điểm
các hội quần chúng cứu quốc ở Cao Bằng, tiến lên Người đã thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh,
gọi tắt là Mặt trận Việt Minh (19/5/1941) thì tổ chức Mặt trận mới thực sự hiện
hữu như một thực thể chính trị to lớn, rộng rãi, hình thành cơ cấu từ Trung
ương đến cơ sở, mới thực sự là MTDTTN mà các hình thức mặt trận trước kia chưa
nhận thức và quán triệt đầy đủ.
Các tổ
chức Mặt trận sau này như Hội Liên hiệp
Quốc dân Việt Nam (Liên Việt), Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cũng như các tổ chức mặt trận hoạt động ở miền Nam thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ - Ngụy như Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, đều ra đời với sự chỉ đạo trực
tiếp của HCM đều quán triệt quan điểm của Người: “Hễ là người Việt Nam thì ai
cũng có lòng yêu nước, ghét giặc”, vì vậy, phải tổ chức tập hợp mọi lực lượng
miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân
Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc là có thể dùng được.
Dưới ánh sáng chỉ đạo của tư tưởng đó, các tổ chức mặt trận
sau này đã không ngừng mở rộng biên độ của sự tập hợp quốc dân đã phát huy được
tinh thần yêu nước, đoàn kết của toàn dân tộc, làm nên những chiến công vẻ vang
trong lịch sử.
Tháng
10/2009, Đại hội MTTQVN lần thứ VII đã được diễn ra. Trên cơ sở phát triển
chiến lược ĐĐKDT HCM trong thời đại mới, ĐH diễn ra với chủ đề "Nâng cao vai
trò MTTQVN, phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh", đại hội lần này là đợt
sinh hoạt chính trị của toàn Đảng, toàn quân và toàn thể nhân dân Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
b. Một số nguyên tắc cơ bản về xây
dựng và hoạt động của MTDTTN
Theo Hồ Chí Minh: Mặt trận phải được
xây dựng theo những nguyên tắc sau đây:
- MTDTTN phải được xây dựng trên nền
tảng khối liên minh công – nông – trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Trong quá
trình thực hiện đường lối xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, HCM luôn
chủ trương không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc, nghề nghiệp, nam
nữ…nhưng đại đoàn kết không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát,
nhất thời mà phải là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định hướng,
có tổ chức, trong MTDTTN rộng rãi lấy liên minh công – nông – trí thức làm nền
tảng và do Đảng của GCCN lãnh đạo.
+ Là nguyên tắc cốt lõi trong chiến
lược ĐĐK Hồ Chí Minh “công, nông, trí cần đoàn kết chặt chẽ thành một khối”, khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp
lực lượng của các nhà yêu nước VN trong lịch sử và một số lãnh tụ cách mạng
khác ở khu vực và trên thế giới.
Trước khi
chủ nghĩa Mác ra đời, lực lượng quần chúng thường được nhìn nhận là một lực
lượng xã hội mù quáng. Các thế lực chính trị đã lợi dụng sức mạnh tự phát của
quần chúng để thực hiện các ý đồ của họ vì những quyền lợi ích kỷ. Cũng có
những nhà yêu nước thấy được sức mạnh quần chúng, có tâm nguyện tập hợp quần
chúng đấu tranh vì quyền lợi của chính quần chúng. Song, vì không có lý luận
khoa học, phương pháp tuyên truyền, tổ chức đúng đắn, nên dù động cơ vì dân, vì
nước trong sáng, kết cục vẫn bi thảm.
Ngay cả
Phan Bội Châu – trong cuộc vận động yêu nước chống Pháp, một trong số ít người
sớm có ý tưởng mới mẻ, nêu khẩu hiệu “toàn
dân đoàn kết”, đặt nhiệm vụ cứu nước thành “trách nhiệm của quốc dân”; “trách nhiệm của hàng triệu người”
nhưng cũng chỉ dừng lại ở “10 hạng người
đồng tâm”, còn lại 2 lực lượng đông đảo nhất, tiên tiến nhất, có vai trò
quyết định nhất là GCCN và nông dân thì ông không hề đề cập đến. Nhưng quan
trọng hơn là dù chủ trương đoàn kết rộng rãi thế nào mà không hình thành được
một tổ chức để tập hợp quần chúng lại thì cũng vẫn chỉ là kêu gọi suông, không
tạo ra được sức mạnh trong thực tế.
Giải thích
vì sao phải lấy liên minh công nông làm nền tảng, vì công nông là đông đảo
nhất, bị áp bức bóc lột nặng nề nhất nên họ là người chủ cách mệnh, là gốc của
cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị áp bức, tuy không
cực khổ bằng song vẫn là bầu bạn của công nông. Người nói: “Vì họ là người trực
tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú, làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết mà
cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn,
bền bỉ hơn mọi tầng lớp nhân dân khác”.
Bên cạnh
việc nhấn mạnh vai trò nòng cốt của liên minh công – nông trong MTDTTN, nhưng
Người luôn luôn chống lại khuynh hướng hẹp hòi, cô độc, chỉ thấy vai trò của
công - nông mà không thấy vai trò và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các
tầng lớp nhân dân khác, nhất là với trí thức. Vì lực lượng trí thức rất cần
thiết đối với cách mạng, ví dụ như cần có thầy thuốc để săn sóc sức khoẻ cho
nhân dân, cần có thầy giáo để dạy văn hóa và đào tạo cán bộ, cần có kỹ sư để
xây dựng kinh tế…
Nói chuyện
tại lớp nghiên cứu chính trị khoá I Đại học Nhân dân Việt Nam 21/7/1956, Người
nói: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lao động trí óc
có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt
chẽ thành một khối”
MTDTTN và liên minh công -
nông luôn được HCM xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai
cấp.
Chiến lược ĐĐK HCM có một phạm vi rất rộng lớn, là
một tập hợp có tổ chức chặt chẽ. Lực lượng ĐĐK bao gồm tất cả các giai tầng xã hội,
các ngành giới, các lứa tuổi, các tôn giáo… hợp thành MTDTTN rộng rãi. Xương
sống và sức mạnh chủ yếu của khối ĐĐKDT là khối liên minh công – nông. Mối quan hệ giữa MTDTTN
với liên minh công – nông là sự phản ánh về mặt tổ chức xã hội, mối quan hệ
biện chứng giữa dân tộc, giai cấp.
Tách biệt hoặc nhấn mạnh một chiều của MTDTTN hoặc liên
minh công nông đều không đúng với biện chứng của đời sống cách mạng, không đúng
với nguyên tắc chiến lược của Hồ Chí Minh.
Tuyệt đối
hóa vai trò, vị trí của liên minh công - nông, hạ thấp vai trò của MTDTTN sẽ
dẫn đến cực đoan, tả khuynh và bệnh cô lập, hẹp hòi.
Ngược lại,
nhấn mạnh, đề cao một chiều vai trò của MTDTTN, coi nhẹ liên minh công nông sẽ
dẫn đến hữu khuynh, vô nguyên tắc, vô chính phủ. Sự thật, MTDTTN càng rộng rãi
bao nhiêu, sức mạnh của liên minh công nông càng to lớn bấy nhiêu; ngược lại
càng được củng cố, tăng cường thì MTDTTN càng vững chắc, càng có sức mạnh.
+ Khối đại đoàn
kết trong MTDTTN chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính
nguyên tắc, vừa là một tất yếu đảm bảo cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có
hiệu lực trong thực tiễn.
ĐĐK là công việc của toàn dân tộc, ĐCS là một bộ phận hữu cơ của
khối ĐĐK đó. Song theo Hồ
Chí Minh, khối ĐĐK chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là một tất
yếu đảm bảo cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực
tiễn. Bởi vì chỉ có chính Đảng của GCCN được vũ trang bởi CNML mới đánh giá
đúng vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra
được đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng
vào khối ĐĐK trong Mặt trận.
Ví dụ như: Đảng
ta đã đứng ra lập các hội quần chúng và đưa họ vào tổ chức MTDTTN. Cũng chính ĐCSVN
đã giúp cho các nhà trí thức, các nhà tư sản lập ra chính Đảng riêng của mình
để họ có chỗ đứng vẻ vang trong tổ chức Mặt trận. Trong lịch sử đấu tranh giai
cấp và dân tộc trên thế giới, đây là một hiện tượng chưa từng có.
Chính vì
vậy Hồ Chí Minh luôn xác định mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối quan hệ
máu thịt. Không có Mặt trận, Đảng không có lực lượng, không thực hiện được
những nhiệm vụ cách mạng. Không có sự lãnh đạo của Đảng thì Mặt trận không thể
hình thành, phát triển và không có phương hướng hoạt động đúng đắn. Do vậy, ĐCS
phải vừa là thành viên của MTDTTN, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
Bên cạnh
đó, sự lãnh đạo của Đảng vừa có tính điều kiện. Vì Đảng vừa là một thành viên của Mặt
trận, đồng thời vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Nhưng Người lưu ý, quyền
lãnh đạo Mặt trận không phải do Đảng tự phong cho mình mà phải được nhân dân
thừa nhận. Khi Đảng chưa nắm chính quyền, Người đã từng nhắc nhở: “Đảng không
thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ
phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và
công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và
năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Và Đảng
lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn phù
hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Đảng phải dùng phương pháp vận
động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa,
khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu, mệnh
lệnh.
Sau khi trở
thành ĐCQ, để Đảng thực sự xứng đáng là linh hồn, là người lãnh đạo thật trung
thành của nhân dân, của mặt trận, Chủ tịch HCM đã yêu cầu Đảng phải không ngừng
tự chỉnh đốn và đổi mới, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
mình, phải gương mẫu về mọi mặt để xứng đáng là tiêu biểu cho trí tuệ và lương
tâm, vinh dự của giai cấp và của dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Đảng
là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết giữa các cán bộ lãnh đạo, là
cơ sở của ĐĐKDT. Trong “Di chúc”, Người căn
dặn: “Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết
nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Như vậy, khối ĐĐK trong MTDTTN phải được xây dựng trên
lập trường GCCN, lấy liên minh công – nông làm nền tảng, do ĐCS lãnh đạo. Đó là
nguyên tắc chiến lược bất di bất dịch của HCM. Chỉ có tuân thủ chặt chẽ nguyên
tắc này, khối ĐĐK trong MTDTTN mới có sức sống bền vững và trường tồn.
- MTDTTN phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi
ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân
Chức năng của Mặt trận được lập ra để
thực hiện đoàn kết toàn dân, song khối ĐĐK đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi
có sự thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích. Ngay từ bài xã luận trên báo “Thanh niên” số 1 – năm 1925, Nguyễn Ái
Quốc đã chỉ rõ: “Chỉ có thể đoàn kết nếu có chung một mục đích, chung số phận.
Nếu không suy nghĩ như nhau, không theo đuổi mục đích chung, không có chung số
phận thì dù có kêu gọi đoàn kết, đoàn kết cũng vẫn không thể có được”.
Mẫu số
chung, nguyên tắc bất di bất dịch, ngọn cờ để thực hiện ĐĐK các giai cấp, tầng lớp, đấu tranh cho
thắng lợi của sự nghiệp GPDT theo Hồ Chí Minh chính là “không có gì quý hơn độc
lập, tự do” là lợi ích tối cao, xuyên suốt, đây cũng chính là lẽ sống và là nội
dung cơ bản trong tư tưởng cách mạng của Người, là nguồn gốc và ý chí chiến
đấu, là mục tiêu cấp bách và nóng bỏng nhất của dân tộc trong cảnh nước nhà bị
đế quốc thực dân thống trị.
Vấn đề còn
lại là ở chỗ, phải làm thế nào để tất cả mọi người thuộc tất cả các giai tầng
nào, lực lượng nào trong Mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên
hết, trước hết. Bởi lẽ, lợi ích tối cao của dân tộc được đảm bảo thì lợi ích cơ
bản của mỗi bộ phận, mỗi người mới được thực hiện.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền
lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân được Hồ Chí Minh kết tinh trong tiêu chí
của nước CHXHCNVN là độc lập - tự do - hạnh phúc.
- MTDTTN phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp
thương dân chủ, đảm bảo đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững
Trong xã hội, có rất nhiều mối quan
hệ chằng chéo nhau, và suy cho đến cùng thì có ĐĐK hay không và đoàn kết đến mức nào,
tùy thuộc vào việc nhận thức và giải quyết các mối quan hệ về mặt lợi ích. Và
một trong những nguyên tắc hoạt động của mặt trận đó là hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi
hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để các thành viên cùng
nhau bàn bạc công khai. Khi có lợi ích riêng biệt không phù hợp, mặt trận sẽ
giải quyết bằng việc nêu cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự vận động hiệp
thương dân chủ, tạo ra nhận thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ
phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung với lợi ích riêng, cùng nhau bàn bạc để
đi đến nhất trí, loại trừ mọi áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đảng là lực lượng
lãnh đạo Mặt trận, nhưng cũng là một thành viên của Mặt trận. Do vậy, tất cả
mọi chủ trương, chính sách của mình. Đảng phải có trách nhiệm trình bày trước
Mặt trận, cùng với các thành viên khác của Mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân
chủ để tìm kiếm các giải pháp tích cực và thống nhất hành động, hướng phong
trào quần chúng thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã vạch ra.
- Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương
dân chủ phải đứng vững trên lập trường GCCN, giải quyết hài hòa giữa mối quan
hệ lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích
lâu dài và lợi ích trước mắt…Phải làm cho tất cả thành viên trong Mặt trận thấm
nhuần lợi ích chung, lợi ích tối cao của dân tộc, và đặt lợi ích chung lên trên
hết, trước hết. Những lợi ích riêng chính đáng phù hợp với lợi ích chung phải
được tôn trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ phận không phù hợp sẽ dần dần được
giải quyết cùng với tiến trình chung của cách mạng. Trong quá trình hoạt động,
Mặt trận cần quan tâm xem xét, giải quyết thỏa đáng, thấu tình, đạt lý mối quan
hệ lợi ích giữa các thành viên bằng việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp
thương dân chủ.
Và HCM đã
dựa vào những yếu tố tương đồng, thống nhất để khắc chế, giải quyết các yếu tố
khác biệt, mâu thuẫn theo phương châm chỉ đạo: dân tộc trên hết, Tổ quốc trên
hết và tất cả là do con người. Đúng như nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng đã
nói : “Tư tưởng Hồ Chí Minh cố tìm
mẫu số chung của toàn dân tộc thay vì khoét sâu sự cách biệt, đặt tiến trình đi
lên của lịch sử trên căn bản quy tụ thay vì loại trừ” .
- MTDTTN là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài,
đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
+ Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị” - lấy cái chung để
hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
Người đã nhận thấy được giữa các
thành viên của khối ĐĐKDT, bên cạnh những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác nhau
cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có
những nhân tố tiêu cực cần khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh những phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế
cái riêng, cái khác biệt. Vì vậy, Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục
tình trạng xuôi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu
dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ.
Trong bài nói chuyện tại lớp bồi
dưỡng cán bộ về công tác Mặt trận 8/1962. Người yêu cầu: “Chúng ta phải đoàn
kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân… Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn
thể trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn
nhau, cùng nhau tiến bộ. phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng
Tổ quốc… phải đoàn kết chặt chẽ đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo cùng
nhau xây dựng đời sống hoà thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc”.
Trong thời đại ngày nay, một nội dung
mới của ĐĐKDT được đặt ra là xây dựng đồng thuận xã hội. Đồng thuận chưa phải là hoàn
toàn nhất trí, nghĩa là vẫn còn sự khác nhau, nhưng cùng thỏa thuận tạm gác lại
để thực hiện cái chung. Đồng thuận cũng không loại bỏ đấu tranh giữa các ý
kiến, quan điểm, xu hướng còn khác nhau đồng thời cũng chống lại những gì có
thể dẫn tới sự phân rã của xã hội. Nói cách khác, đồng thuận chấp nhận còn mâu
thuẫn, khác biệt nhưng đòi hỏi giải quyết bằng thương lượng, thỏa hiệp. Trên ý
nghĩa đó, đồng thuận được coi là một giá trị chính trị cơ bản trong một chế độ
dân chủ. Và điều kiện để xây dựng đồng thuận xã hội cần phát triển tinh thần
khoan dung Hồ Chí Minh trong thời đại mới.
+ Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết.
Đoàn kết thực sự nghĩa là lực lượng nhất
trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết
vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, giúp nhau nhận ra cái sai, nhưng phê
bình cái sai đó phải trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Trong quá trình
xây dựng, củng cố và phát triển MTDTTN, Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh hướng cô
độc, hẹp hòi, đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết 1 chiều, đoàn kết mà không
có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận.
# Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Trong thời gian qua, nhìn chung khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền
tảng liên minh công nông trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong khi
sự nghiệp đổi mới có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì việc tập
hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn
chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số…
Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách
mạng hiện nay là: phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu của CNXH
Trong tình hình hiện nay, để vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng, củng cố, mở rộng khối ĐĐKDT cần chú ý những vấn đề sau đây:
Một là,
phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là
nguồn động lực chủ yếu và là nhân tố đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là,
lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần
cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.
Ba là đảm
bảo công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp
pháp của giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân,
tập thể và toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn liền với kỷ cương, chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí…xem đó là nhân tố quan trọng để củng cố và phát
triển khối ĐĐKDT
Bốn là, ĐĐK là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả
hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng được thực hiện bằng
nhiều biện pháp và hình thức trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐKDT có vai trò
quan trọng, không chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài toán của cách mạng
vào thời điểm đó mà trong suốt chiều dài lịch sử vẫn giữ nguyên giá trị. Thực
tiễn CMVN trên 80 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh
vĩ đại của TTHCM về ĐĐKDT. ĐĐKDT, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành
sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của ĐCSVN trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng XHCN. Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư
tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và biến thành hành
động cách mạng của hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự
nghiệp GPDT, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Lịch sử CMVN hơn nửa thế kỷ qua cho
thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng ĐĐKDT của HCM được quán triệt và thực hiện
đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi,
nơi nào, lúc nào rời xa tư tưởng đó thì khi đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và
tổn thất.
Ở thời
điểm dân tộc ta đang bước vào thế kỷ XXI những thời cơ và thách thức đan xen
nhau đang thường xuyên tác động đến khối ĐĐKDT. Hơn lúc nào hết, đòi hỏi chúng
ta phải quán triệt những quan điểm của HCM về ĐĐKDT, phải vận dụng sáng tạo và
tiếp tục phát triển những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình
hình mới. TTHCM về ĐĐKDT sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện cùng với thực tiễn
biến đổi của đất nước. Tư tưởng ấy vẫn là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch
của cách mạng Việt Nam để đi tới thắng lợi hoàn toàn và triệt để của ĐLDT và CNXH.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
Đoàn kết
quốc tế là một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi của CMGPDT ở Việt Nam. Từ
những ngày đầu tiên hoạt động cứu nước cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời cách
mạng, Hồ Chí Minh luôn đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thế
giới, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng quốc tế và
nhận thức về nghĩa vụ của cách mạng Việt Nam đối với sự nghiệp chung của nhân
loại tiến bộ. Vì thế, quan điểm đoàn kết quốc tế là một nội dung gắn kết chặt
chẽ và hữu cơ trong toàn bộ tư tưởng chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong
sự nghiệp đấu tranh cách mạng.
1. Sự cần thiết xây dựng đoàn kết
quốc tế
a. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
-
Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
+ Sức mạnh dân tộc Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, là tinh thần
đoàn kết, ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập tự do, ý thức tự lực,
tự cường…
Lịch sử của dân tộc ta là
lịch sử của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong đấu tranh
chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động sản xuất nhân dân
Việt Nam đã thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường, sự thông
minh sáng tạo, ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường.
Trong truyền thống dân tộc ấy nổi bật lên sức mạnh của lòng yêu nước. Tinh thần
yêu nước của nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc,
vì phải luôn luôn đối đầu với nhiều khó khăn của tự nhiên
và chiến tranh xâm lược, sự đô hộ của
kẻ thù từ nhiều phương kéo đến. Lòng yêu nước Việt Nam đã
trở thành sức mạnh, một thứ đạo lý, một lẽ sống của mỗi người
dân, cũng là một tiêu chí cao nhất để đánh giá con người
trong xã hội ta. Sinh ra trong cảnh đất nước lầm than cơ cực và mất tự do,
ngay từ thủa thiếu thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm được tiếp xúc với các chí
sỹ yêu nước và nhanh chóng nhận ra ý nghĩa và vai trò to lớn của sức mạnh dân
tộc, Người hiểu rằng sức mạnh dân tộc là điều kiện kiên quyết để giành lại độc
lập dân tộc, qua những tấm gương của các chí sỹ yêu nước như cụ Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh và các cuộc khởi nghĩa trong nước như Cần Vương, Yên Thế người
nhận ra chỉ sức mạnh dân tộc và lòng yêu nước thôi là chưa đủ. Cũng vì nỗi trăn
trở đó mà năm 1911 Người đã theo một chiếc tàu buôn Pháp lên đường sang phương
Tây tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam và Người đã tìm ra.
+ Sức mạnh thời đại là sức mạnh của
giai cấp vô sản thế giới, của khối liên minh chiến đấu giữa lao động ở các
thuộc địa với nhau và giữa lao động ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc.
Thời đại của chúng ta mở đầu bằng
Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Cuộc cách mạng này đã mở ra con đường giải phóng
cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử. Ý
nghĩa lịch sử toàn thế giới của cuộc cách mạng này đã “mở ra con đường giải
phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử, thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”
Theo Hồ Chí Minh
sức mạnh thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động thế
giới. Trong quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo CNML vào hoàn cảnh cụ thể
của VN, Hồ Chí Minh nhận thấy sức mạnh của dân tộc là chủ yếu, đồng thời phải
khai thác sức mạnh của thời đại. Người chỉ rõ, sức mạnh của thời đại chúng ta
là sức mạnh của giai cấp vô sản, nó định hướng và làm nòng cốt trong việc thực
hiện sự phát triển hợp quy luật của lịch sử. CNML bắt nguồn trực tiếp từ sức
sống của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nó tồn tại, phát triển và sẽ
không ngừng được bổ sung, hoàn thiện cho dù hiện nay đang bị các thế lực thù
địch tấn công từ nhiều phía.
- Mối
quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại (Sự cần thiết phải
kết hợp):
Theo Ph.Ăngghen, cách
mạng muốn giành thắng lợi, Đảng cách mạng phải tạo ra được một sức mạnh tổng
hợp; kết hợp với sức mạnh quốc tế một cách đúng đắn sẽ tạo ra lực lượng tổng
hợp đó. Kết hợp hai sức mạnh này là đòi hỏi khách quan trong đấu tranh trong
cách mạng của mọi dân tộc.
Hồ Chí Minh đã nhận thức
sâu sắc sự gắn bó biện chứng giữa yếu tố chủ quan (dân tộc) và yếu tố khách
quan (quốc tế). Từ nhận thức này, Người đã rút ra những luận điểm mang tính
nguyên tắc và những nội dung của tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại.
Người cho rằng, những
người bị áp bức ở tất cả các nước phải hiểu “đâu là những người anh em
thực sự và đâu là kẻ thù của họ”. Tư tưởng này chỉ đạo việc đoàn kết nhân dân
thế giới trong cùng một mặt trận để cùng nhau chống kẻ thù chung. Trên cơ sở
đó, HCM đã sáng lập “Hội liên hiệp thuộc địa” năm 1921, “Hội liên hiệp các dân
tộc bị áp bức” năm 1925. Đây là những hình thức sơ khai của mặt trận các dân
tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh
giải phóng dân tộc giữa “những người anh em thực sự”. Đó là hình thức liên minh
giữa các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế quốc.
Bác đã chỉ rõ sự cần
thiết phải đoàn kết quốc tế rộng lớn giữa nhân dân các nước thuộc địa và phụ
thuộc với nhau, giữa nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc với giai cấp công
nhân, nhân dân lao động ở các nước tư bản đế quốc, giữa giai cấp vô sản toàn
thế giới, nhằm tập hợp mọi lực lượng đấu tranh cho mục tiêu hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cùng với sự đoàn kết quốc
tế của các phong trào cách mạng, phong trào hòa bình, dân chủ thế giới cũng thể
hiện sức mạnh của thời đại mới. Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh vì chủ nghĩa xã
hội, đấu tranh cho độc lập dân tộc không tách rời cuộc đấu tranh cho hòa bình,
dân chủ. Nhận thức đúng đắn này là cơ sở quan trọng để Hồ Chí Minh đề ra chiến
lược , sách lược cách mạng nói chung, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại nói riêng.
Để thực hiện thành công
việc kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại đòi hỏi phải có nhận thức về thế
giới, về thời đại một cách khoa học, biện chứng, khắc phục những sai lầm, thiếu
sót do tư tưởng chủ quan, duy ý chí gây ra, đồng thời phải biết sắp xếp lực
lượng cách mạng trong nước và quốc tế cho phù hợp với mục tiêu đấu tranh và
tình hình cụ thể cách mạng
*Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng đã thực hiện tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam
Ngay từ những năm 30, Hồ
Chí Minh chỉ ra, Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh
để đi tới xã hội cộng sản”. Đó là con đường giải phóng dân tộc trong phạm trù
cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con
đường đó đã đưa cách mạng Việt Nam hòa vào dòng chảy chung của cách mạng thế
giới, tạo cho Việt Nam điều kiện thực hiện được việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn cho cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh đó làm nên thắng lợi của cách mạng 8/45, làm nên chiến thắng của cuộc
chiến tranh vệ quốc 30 năm (45-75) và những thành tích trong đổi mới hiện nay.
Một minh chứng tiêu biểu
cho sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong tiến trình
cách mạng Việt Nam chính là sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đó
là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng thể
để đánh thắng kẻ địch có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn ta gấp
nhiều lần
Đảng ta đã nhận định,
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta mang tính thời đại sâu sắc
và ý nghĩa quốc tế to lớn. Tính chất thời đại thể hiện qua mục tiêu của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của
thời đại: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội (CNXH). Do đó,
khi Đảng ta giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, CNXH, chúng
ta đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ từ khắp nơi trên thế giới. Đối thủ của chúng
ta là một đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn nhất thế giới, nhưng
cũng là đối thủ của tất cả những ai yêu hoà bình, dân chủ, thiết tha với độc
lập dân tộc, với CNXH. Mỹ xâm lược Việt Nam nhằm ý đồ chiến lược toàn cầu, bao
vây, ngăn chặn CNXH và đánh đòn phủ đầu phong trào giải phóng dân tộc đang dâng
cao từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, mà Việt Nam với chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ là lá cờ đầu.
Không tận dụng được các
nhân tố bên ngoài, không vận dụng được sức mạnh của các lực lượng cách mạng và
nhân dân tiến bộ trên thế giới ủng hộ ta thì có thể nói, kháng chiến khó giành
được thắng lợi, hoặc phải đấu tranh rất trầy trật và không thể thắng lợi hoàn
toàn. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ta giành được thắng lợi chủ
yếu là do quyết tâm của nhân dân ta, do sức mạnh của quân đội ta, của dân tộc
ta, nhưng yếu tố quốc tế cũng quyết định một phần lớn.
Với sự kết hợp tài tình
giữa việc kết hợp sức mạnh dân tộc sức mạnh thời đại và các chủ trương đúng đắn
của Hồ Chủ tịch và Đảng Cộng Sản chúng ta đã giành thắng lợi to lớn trước đế quốc
Mỹ hùng mạnh, đem lại độc lập tự do và toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc sau một
thời gian dài bị đô hộ xâm lược.
Xây dựng tình hữu nghị và
hợp tác, sự đoàn kết giữa các dân tộc và vô sản các nước cũng là một phần rất
quan trọng trong tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại của Hồ
Chủ tịch.Nội dung này đã xuyên suốt trong các chủ trương đường lối đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi thành lập cho tới nay.
Trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh rất chăm lo xây dựng, vun đắp cho tình hữu
nghị, hợp tác và đoàn kết giữa các dân tộc để tạo lên một sức mạnh to lớn nhằm
đạt tới mục tiêu của dân tộc và thời đại.“Tình hữu ái vô sản “ giữa các dân tộc
, đặc biệt giữa những người bị áp bức , bị bóc lột là tư tưởng nhất quán trong
suốt cuộc đời Hồ Chí Minh. Người đã từng khẳng định : “…dù màu da có khác nhau
, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản
“.
Trước nguy cơ “diễn biến
hoà bình”, trước việc một số thế lực phản động lợi dụng vai trò giúp đỡ, viện
trợ, đặt nhân quyền cao hơn chủ quyền để can thiệp vào công việc nội bộ các
nước, hiện nay, hơn lúc nào hết chúng ta cần quán triệt lời dạy của Hồ Chí Minh:
Mỗi một người phải nhớ rằng có độc lập mới có tự lập, có tự cường mới có tự do.
Người còn chỉ rõ; Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước là quan trọng nhưng không
được ỷ lại, không được mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh
mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập.
Tư tưởng Hồ Chí
Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nền tảng chính trị
trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Thấm nhuần Tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn
kiện của Đảng trong những năm đổi mới đều khẳng định sự cần thiết phải vận dụng
sáng tạo tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nghị quyết Đại hội VII
của Đảng (1991) khẳng định: Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng
bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng trên của Bác rất
phù hợp với xu thế toàn cầu hoá và thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước. Trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định :
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
b. Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng
- Thực hiện đoàn kết quốc tế vì thắng
lợi của cách mạng mỗi nước và vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các
mục tiêu cách mạng của thời đại
Thời đại Hồ
Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt
lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân
tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả
loài người.
Ngay sau khi
nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để
phá thế đơn độc của CMVN, gắn cách mạng nước ta với cách mạng thế giới. Trong
suốt quá trình đó, Người không chỉ phát huy triệt để của sức mạnh chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc trong đấu tranh giành tự do, độc lập cho dân tộc mình
mà còn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa
các lực lượng cách mạng thế giới đấu tranh cho mục tiêu chung: hoà bình, độc
lập, dân chủ và CNXH.
Người cho
rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh: chủ nghĩa yêu nước
triệt để không thể nào tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Trong
báo cáo chính trị tại Đại hội II (2/1951), Người chỉ rõ: “Tinh thần yêu nước
chân chính khác hẳn với tinh thần vị quốc của bọn đế quốc phản động. Nó là một
bộ phận của tinh thần quốc tế”.
Sau này,
trong tác phẩm “Thường thức chính trị”,
Người nói rõ hơn: “Tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn quyền độc lập, tự
do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh thần quốc tế là đoàn kết với các
nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn hòa bình thế giới, chống chính
sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc…giữ gìn hòa bình thế giới
tức là giữ gìn lợi ích của nước ta…Đó là lập trường quốc tế cách mạng”
- Để tăng cường đoàn kết quốc tế các ĐCS
cần giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản
cho GCCN và nhân dân lao động.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh
vì mục tiêu chung, các Đảng cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng
sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, sôvanh… những khuynh
hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lực lượng cách mạng thế
giới. Nói cách khác, các đảng cộng
sản phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết
hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho GCCN và nhân dân lao động.
Thắng lợi của
cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua là thắng lợi của tư tưởng HCM: ĐLDT
gắn liền với CNXH. Nhờ kết hợp GPDT với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước
truyền thống Việt Nam đã được bổ sung thêm nguồn lực mới, trở thành chủ nghĩa
anh hùng cách mạng. Nhờ giương cao ngọn cờ CNXH, Việt Nam đã tranh thủ được sự
đồng tình, ủng hộ quốc tế, huy động sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời
đại, làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội, chiến thắng được những kẻ
thù có sức mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đòi hỏi Đảng và nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh
2. Nội dung và hình thức đoàn kết
quốc tế
a. Các lực lượng cần đoàn kết
Tập trung chủ
yếu vào 3 lực lượng: phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu
tranh và giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình, dân chủ thế giới
- Đối với phong trào cộng sản và công nhân thế
giới.
Là lực lượng nòng cốt của đoàn kết
quốc tế. Sự đoàn kết giữa GCVS quốc tế là một đảm bảo vững chắc cho thắng lợi
của chủ nghĩa cộng sản
Tại Đại
hội Tua của Đảng Xã hội Pháp (12/1920), Hồ Chí Minh lên tiếng: “Nhân danh toàn
thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả,
chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí hãy cứu chúng tôi”.
+ Người
cho rằng, CNTB là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân
lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh đó, chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết,
nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động toàn thế giới theo tinh
thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có thể chống lại âm mưu thâm độc của
của CNĐQ thực dân.
+ Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam đã khẳng định
trên thực tế những giá trị nhân văn cao cả của chủ nghĩa quốc tế vô sản mà Hồ
Chí Minh đã kiên trì thực hiện và bảo vệ.
- Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc
Hồ Chí Minh kiến nghị đề ra những biện
pháp nhằm đoàn kết các dân tộc thuộc địa với nhau và tăng cường đoàn kết giữa
cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc.
+ Người đã kiến nghị Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về
những biện pháp nhằm “Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách
biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh
phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản”.
+ Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế
Cộng sản, bằng mọi cách phải “Làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa
tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp
tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân
quốc tế giành thắng lợi cuối cùng”.
- Đối với các lực lượng tiến bộ,
những người yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự do và công lý.
b. Hình thức đoàn kết
Dựa trên cơ
sở các quan hệ về địa lý, chính trị và tính chất chính trị xã hội trong khu vực
và trên thế giới cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng mỗi thời kỳ, Hồ Chí
Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Đoàn kết quốc
tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách lược, một thủ đoạn
chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi hỏi khách quan của
cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Ngay từ năm
1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt trận thống nhất của
nhân dân chính quốc và thuộc địa”
chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời kiến nghị Quốc tế cộng sản cần có giải pháp
cụ thể để đến Đại hội VI (năm 1928) quan điểm này trở thành hiện thực.
- Đoàn kết trên cơ sở xây dựng mặt trận giữa ba nước Đông Dương:
+ Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần
gũi của nhau, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, dân cư có chung nhiều
phong tục tập quán và cùng chung kẻ thù là thực dân Pháp.
+ Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và
quyền tự quyết của mỗi dân tộc, Người quyết định thành lập “Mặt trận độc lập đồng minh” cho mỗi nước
Việt Nam, Lào, Cao Miên, để tiến tới thành lập “Đông Dương độc lập đồng minh”.
+ Trong hai cuộc kháng chiến, để tăng
cường sức mạnh cách mạng ở mỗi nước, Người chỉ đạo thành lập “Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào” phối
hợp và giúp đỡ nhau cùng chiến đấu thắng lợi.
- Mặt trận Á – Phi đoàn kết với Việt Nam:
+ Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị,
hợp tác nhiều mặt theo tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung
Quốc.
+ Từ những năm 20 của thế kỷ XX,
Người tham gia sáng lập “Hội liên hiệp
thuộc địa” tại Pháp và sáng lập “Hội
liên hiệp các dân tộc bị áp bức” tại
Trung Quốc, góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời “Mặt trận nhân dân Á – Phi”.
- Mặt trận trong phe dân chủ: Trong những năm đấu tranh giành chính
quyền, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng các quan hệ với Mặt trận dân chủ và
lực lượng đồng minh chống phát xít, nhằm tạo thế dựa cho cách mạng Việt Nam.
- Mặt trận các lực lượng tiến bộ: Bằng các hoạt động ngoại giao không
mệt mỏi, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em,
của bạn bè quốc tế, của nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân Pháp và nhân
dân Mỹ, hình thành “Mặt trận nhân dân thế
giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược”.
Hồ Chí Minh phân
ra các mối quan hệ đoàn kết đó bởi vì Người luôn tôn trọng nguyên tắc: Thêm
bạn, bớt thù, tranh thủ sự ủng hộ tối đa của các lực lượng tiến bộ trên thế
giới để mở rộng khối đại đoàn kết, thu hẹp trận tuyến quân thù, từ đó tăng thêm
sức mạnh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết vì
thắng lợi cách mạng của Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng
Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đại đoàn kết Việt – Miên –
Lào; Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân dân thế
giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển
rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
a. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc, muốn thực hiện đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực phản động quốc tế thì phải tìm ra được những điểm tương
đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong
trào cách mạng thế giới. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đặt cách mạng Việt Nam
trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với
trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự
nghiệp chung của loài người tiến bộ.
- Đối với phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế:
Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và
chủ nghĩa quốc tê vô sản, có lý, có tình.
Là một chiến sỹ cách mạng quốc tế
kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp củng cố khối đoàn
kết, thống nhất giữa các lực lượng cách mạng thế giới, trước hết là phong trào
cộng sản và công nhân thế giới, lực lượng tiên phong của cách mạng thế giới
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
+ Trong đó, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng,
để thực hiện đoàn kết quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng “là điều kiện quan trọng
nhất để bảo đảm cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng trong cuộc đấu
tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể loài người”,
để làm được điều này cần đứng vũng trên lập trường giai cấp công nhân, quán
triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản
+ “Có lý” trước hết là phải tuân thủ
những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, phải xuất phát từ lợi ích
chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, việc trung thành với chủ nghĩa Mác –
Lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào thực tiễn của mỗi nước,
mỗi đảng, tránh rập khuôn, giáo điều.
+ “Có tình” là sự thông cảm, tôn
trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những người cùng chung lý tưởng,
cùng chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc phục tư tưởng sôvanh, “nước lớn”,
“đảng lớn”; không “áp đặt”, “ức chế”, nói xấu, công khai kích nhau, hoặc dùng
các giải pháp về chính trị, kinh tế… gây sức ép với nhau. Có tình cũng có nghĩa
là trong mọi vấn đề cần chờ đợi nhau nhận thức, cùng hành động vì mục đích
chung. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi đảng phải được tôn trọng song
không được phương hại đến lợi ích chung, lợi ích của đảng, dân tộc khác.
Có lý, có tình vừa thể hiện tính
nguyên tắc, vừa thể hiện nội dung của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – cũng là
chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng to lớn trong việc củng cố khối đoàn
kết quốc tế của giai cấp công nhân và củng cố tình đoàn kết trong nhân dân lao
động.
- Đối với các dân tộc trên thế giới:
Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các
dân tộc.
Thực hiện
nhất quán nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng
thời mong muốn các dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam
trên cơ sở những nguyên tắc đó.
Những
nguyên tắc đó đã được Người thể chế hóa sau khi VN giành được độc lập. Tháng
7/1947, Hồ Chí Minh tuyên bố: Chính sách đối ngoại của nước VN là “làm bạn với
tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.
- Đối với các lực lượng tiến bộ trên
thế giới:
Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hòa
bình trong công lý.
+ Trong suốt cuộc đời mình, Người
luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, đấu tranh cho hòa bình, một nền hòa bình thật
sự cho tất cả các dân tộc. Nhưng đó không phải là một nền hòa bình trừu tượng
mà là một nền “Một nền hòa bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân
chủ”,
chống chiến tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi nước.
b. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
- Là yếu tố quyết định thắng lợi ở
mỗi nước, cuộc đấu tranh của nhân dân mỗi nước vì lợi ích của dân tộc mình phải
do nhân dân nước đó tự làm, Đảng cộng sản mỗi nước phải chịu trách nhiệm đối với vận mệnh
của nước mình. Do đó, phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ.
Đây là yếu tố
quyết định, là quy luật đưa cách mạng đến thắng lợi bởi đoàn kết quốc tế là để
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế, nhằm tăng
thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Để đoàn kết tốt, phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn nguồn
lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng trong nguồn lực nội sinh. Do vậy:
+ Trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí
Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”,
“muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”.
+ Trong đấu tranh giành chính quyền,
Người chủ trương “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
+ Trong kháng chiến chống thực dân
Pháp, Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc
khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
- Tuy nhiên,
độc lập, tự chủ không phải là đóng cửa, khép kín, từ chối sự giúp đỡ của các
nước mà phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và
giúp đỡ của nhân dân thế giới.
- Muốn tranh
thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn.
Khi trả lời phỏng vấn của báo chí nước ngoài, Người dã đưa ra quan điểm: “Độc
lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự
can thiệp ở ngoài vào”
“Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí
giúp đỡ lẫn nhau”.
KẾT LUẬN
Hiện nay, Đảng và dân tộc ta đang đứng trước những vận
hội, nguy cơ và thử thách lớn. Vấn đề tập hợp lực lượng, đoàn kết mọi lực lượng
xã hội trong nước và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế để đẩy
mạnh và nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đang đặt ra rất cấp
bách. Hàng loạt các vấn đề về đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong điều
kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, trong thời
đại quan hệ quốc tế đan xen đa chiều, đa cực, các thế lực đế quốc chủ nghĩa
đang tích cực tiến hành “Diễn biến hoà
bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội đang đòi hỏi chúng ta phải giải đáp. Hơn
bao giờ hết, việc học tập, nghiên cứu nghiêm túc để kế thừa, phát triển chiến
lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong thời đại mới có ý nghĩa thực tiễn và lý
luận to lớn
. Hồ Chí Minh: Toàn
tập, t.1, tr. 23 – 24
. Hồ Chí
Minh: Toàn tập, t.1, tr. 124
Comments[ 0 ]
Post a Comment