CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
Nguyễn
Trọng Phúc
Một trong những thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử và thời đại của dân tộc ta trong thế kỷ XX là thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Cách mạng Tháng Tám đã xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, mở ra
kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc : kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự
vùng dậy của cả một dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với tinh thần
"đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Đó là kết quả của phong trào
cách mạng liên tục diễn ra suốt 15 năm kể từ ngày thành lập Đảng, với cao trào
những năm 1930-1931 và Xô viết Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến
phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.
Viết về nguyên nhân thắng lợi và ý
nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh : "Vì
chính sách của Đảng đúng và thi hành chính sách ấy kịp thời và linh động, cuộc
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám đã thành công". "Do sự lãnh đạo sáng suốt
và kiên quyết của Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài
Mặt trận Việt Minh, cuộc cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi". Với thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám "chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt
Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác
cũng có thể tự hào rằng : "Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng
của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo
cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc". Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ : Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh
tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã
xây nền tảng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc.
"Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta".
Thành quả lớn nhất của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 là đã xây dựng Nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt Nam.
Đặc trưng nổi bật của Nhà nước cách
mạng kiểu mới đó là Nhà nước dân chủ, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã cùng toàn dân xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Ngay sau một tháng kể
từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong bài Chính phủ là công bộc của dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ : "Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm
vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính
phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có
lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh".
Về chính quyền nhân dân ở các địa
phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ yêu cầu : "Các Ủy ban nhân dân làng,
phủ là hình thức Chính phủ địa phương phải chọn trong những người có công tâm,
trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông
đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui
lọt vào các Ủy ban đó". Người nhấn mạnh : "Ủy ban nhân dân làng trái
với các hội đồng kỳ mục cũ thối nát, sẽ làm những việc có lợi cho dân, không phạm
vào công lý, vào tự do của dân chúng. Nó hết sức tránh những cuộc bắt bớ đánh đập
độc đoán, những cuộc tịch thu tài sản không đúng lý. Ủy ban nhân dân thận trọng
hết sức trong chỗ chi dùng công quỹ, không dám tuỳ ý tiêu tiền vào những việc
xa phí như ăn uống" "Những nhân viên ủy ban sẽ không lợi dụng danh
nghĩa Ủy ban để gây bè tìm cánh, đưa người "trong nhà trong họ" vào
làm việc với mình" (...) "Ủy ban nhân dân là Ủy ban có nhiệm vụ thực
hiện tự do dân chủ cho dân chúng. Nó phải hành động đúng tinh thần tự do dân chủ
đó".
Một điều dễ nhận thấy là vai trò
quan trọng của chính quyền ở địa phương và cơ sở trong việc thực thi dân chủ trực
tiếp với nhân dân. Những ngày tháng sau Cách mạng Tháng Tám Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dành nhiều thời gian viết nhiều bài về xây dựng các Ủy ban nhân dân.
Ngày 11-9-1945, Người viết bài Cách thức tổ chức các Ủy ban nhân dân. Ngày
4-10-1945 Người viết bài : Thiếu óc tổ chức - một khuyết điểm lớn của các Ủy
ban nhân dân. Và ngày 12-10-1945, Người lại viết bài Sao cho được lòng dân ?
Người nhấn mạnh : "Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dẫu khó đến đâu mặc
lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện
cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu
đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được đặc biệt chú ý"
"muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt
quyền lợi của dân lên trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô
tư".
Đặc biệt, trên báo Cứu quốc số 69
ra ngày 17-10-1945 đã đăng Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một lần nữa Người nêu rõ bản chất cách mạng và dân chủ
của chính quyền nhân dân, nguồn gốc sức mạnh của chính quyền là ở sự gắn bó với
nhân dân, hết lòng, hết sức mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân. "Nếu
không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì
nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành
một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì".
Trong xây dựng Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, Hồ Chí Minh coi trọng phát huy dân chủ để người
dân tự lựa chọn bầu ra người đại biểu vào cơ quan chính quyền nhà nước. Ngay
trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế
độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng
cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống v.v.. Viết về ý
nghĩa của Tổng tuyển cử Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, "Tổng tuyển cử là
một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để
gánh vác công việc nước nhà. Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng ; tức là dân
chủ, đoàn kết". "Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội
sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân".
Nhấn mạnh dân chủ, đồng thời Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng quản lý đất nước, xã hội bằng Hiến pháp và pháp
luật, quan tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền. Ngay từ khi còn đi tìm đường cứu
nước, năm 1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người yêu nước Việt Nam trong yêu
sách 8 điểm gửi tới Hội nghị Véc-xây đã yêu cầu cải cách pháp luật ở Đông Dương
để người bản xứ được bảo đảm về luật pháp như người châu Âu. Nguyễn Ái Quốc đã
nêu rõ tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền, Người nhấn mạnh "Trăm điều
phải có thần linh pháp quyền". Một ngày sau lễ tuyên bố độc lập, ngày
3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ : "Trước chúng ta đã bị chế độ quân
chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên
nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ.
Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ".
Với tư cách là người đứng đầu Nhà
nước và Chính phủ, Trưởng ban soạn thảo Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
huy trí tuệ của Đảng, toàn dân cùng với Quốc hội được bầu ra ngày 6-1-1946 soạn
thảo bản Hiến pháp dân chủ, đó là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước
nhà. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước cách mạng mới được xây dựng qua
14 tháng, đã có được bản Hiến pháp do Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ hai thông qua
ngày 9-11-1946. Đó là hiện tượng đặc biệt của lịch sử các cuộc cách mạng trên
thế giới. Và trong hoàn cảnh cách mạng nước ta "vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc" phải vượt qua bao khó khăn, thách thức, việc thông qua Hiến pháp
càng có ý nghĩa quan trọng về thực tiễn và pháp lý. Đó còn là thành quả to lớn
của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong Lời nói đầu của Hiến pháp đầu
tiên (1946) đã nêu rõ : Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất
nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa. Hiến pháp là thành quả
vẻ vang của cách mạng và được xây dựng trên các nguyên tắc :
- Đoàn kết toàn dân không phân biệt
giống nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo.
- Bảo đảm các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và
sáng suốt của nhân dân.
Bản chất cách mạng và nhân dân,
tính chất dân chủ và pháp quyền hòa quyện và thống nhất với nhau khi Hiến pháp
khẳng định : Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Điều
khẳng định đó khiến ta nhớ lại tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong
cuốn Đường cách mệnh (1927) khi Người cho rằng : Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh,
thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân
chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần,
thế dân chúng mới được hạnh phúc. Từ một ý tưởng, một tư tưởng lớn đến điều được
ghi trong Hiến pháp là kết quả của cả một chặng đường đấu tranh cách mạng lâu
dài, đầy hy sinh, gian khổ của dân tộc ta, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là sự hiện thực hóa, pháp chế hóa mục tiêu đấu
tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Tính chất dân chủ, bản chất nhân
dân của Hiến pháp năm 1946 thật sâu sắc và đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Sự
xác định rõ nghĩa vụ và quyền lợi công dân đã thể hiện điều đó. Mỗi công dân Việt
Nam phải có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp và tuân theo pháp luật.
Có tới 11 điều của Hiến pháp quy định về quyền lợi của công dân (từ điều thứ 6
đến điều thứ 16). Hiến pháp xác định tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về
mọi phương diện : chính trị, kinh tế, văn hóa. Công dân đều bình đẳng trước
pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài
năng và đức hạnh của mình. Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu
số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung. Đàn bà được
ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện. Công dân Việt Nam có quyền tự do
ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư
trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài. Tư pháp chưa quyết định thì không được
bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt
Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật. Quyền tư hữu tài sản của
công dân được bảo đảm. Quyền lợi của những người trí thức và lao động chân tay
được bảo đảm. Người tàn tật, già cả được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt
giáo dưỡng. Thực hiện chế độ phổ cập giáo dục bắt buộc v.v.. Đó là những nội
dung dân chủ mang tính cách mạng sâu sắc. Từ đó đến nay những nội dung nền tảng
đó tiếp tục được phát triển, bổ sung trong các bản Hiến pháp tiếp theo, đã và
đang được thực hiện một cách sinh động trên đất nước ta.
Những quy định của Hiến pháp 1946 về
tổ chức bộ máy nhà nước từ Nghị viện nhân dân, Chính phủ đến Hội đồng nhân dân
và Ủy ban hành chính các cấp, về cơ quan tư pháp đều chứa đựng sâu sắc bản chất
của một nhà nước cách mạng - Nhà nước pháp quyền kiểu mới, của dân, do dân và
vì dân.
Nhà nước của dân và do dân nghĩa là
nhân dân xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền nhà nước, coi chính quyền là ruột
thịt của mình. Nhà nước vì dân nghĩa là nhà nước mưu cầu quyền lợi, hạnh phúc
cho nhân dân. Vì dân không chỉ là mục tiêu hoạt động và tồn tại của chính quyền
mà còn là phương thức, phong cách và phương pháp hành động của chính quyền. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều lần : "Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ
quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là
để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ
dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật". Người nhấn mạnh : "Việc gì có lợi
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta".
Xây dựng Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng rèn luyện đội
ngũ cán bộ chính quyền. Chỉ hơn một tháng sau khi thành lập chính quyền cách mạng,
trong thư gửi Ủy ban nhân dân các cấp Người đã chỉ rõ : "Tôi vẫn biết
trong các bạn có nhiều người làm theo đúng chương trình của Chính phủ, và rất
được lòng dân. Song cũng có nhiều người phạm những lầm lỗi nặng nề". Người
đã thẳng thắn chỉ ra những lầm lỗi chính như : trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư
túi, chia rẽ, kiêu ngạo. Người đã chỉ rõ những biểu hiện cụ thể của từng lỗi lầm
đó. Trong những lỗi lầm đó nổi bật lên là bệnh tham ô, xa hoa, lãng phí, quan
liêu và hách dịch với dân. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện như :
"ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ
đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy
thế với dân". Trong khi đời sống của dân còn đói khổ mà cán bộ "Ăn muốn
cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử
hỏi tiền bạc ấy ở đâu ra ? Thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả
thanh liêm, đạo đức". Những biểu hiện kéo bè, kéo cánh, cá nhân, cục bộ,
không vì việc chung v.v.. cũng rất nặng nề. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê
phán gay gắt thái độ, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt "quan cách mạng" hoặc
là độc hành, độc đoán, hoặc là dĩ công, dinh tư (lấy của chung làm của riêng),
thậm chí dùng pháp công để báo thù tư (dùng pháp luật nhà nước để trả thù
riêng). Thái độ đó làm mất lòng tin cậy của dân và uy tín của Chính phủ.
Phê phán những khuyết điểm của cán
bộ chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn mọi người sửa chữa để chính quyền
ngày càng hoàn thiện và làm việc tốt hơn. Người nêu rõ : "Chúng ta không sợ
sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không
phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến
bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa ; nếu không tự
sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung".
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt ra
yêu cầu mọi cán bộ phải thường xuyên tự phê bình, tự giáo dục, tự chỉ trích để
khắc phục khuyết điểm và cái hư hỏng trong mỗi người và trong bộ máy. Người đòi
hỏi cán bộ phải nhận thức và tự giáo dục không ngừng, cần phải có sự thành thực
vạch ra những khuyết điểm sai lầm mà sửa đổi đi. Sau khi làm xong một công tác
gì, hay sau mỗi ngày làm việc, cần phải tự mình kiểm điểm xem có chỗ nào nhầm lẫn,
chỗ nào chưa đầy đủ, có được ưu điểm gì nên nhớ, có được kinh nghiệm gì quý
đáng ghi. Phải bỏ thái độ "xong việc thì thôi". "Không chịu tự
phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được".
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng những
khuyết điểm nhỏ của cán bộ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì ảnh hưởng
đến khối đoàn kết toàn dân. Vì vậy, chúng ta phải lập tức sửa đổi ngay. Chúng
ta không sợ có khuyết điểm mà chỉ sợ không có quyết tâm sửa đổi.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta mong muốn và đã làm hết sức mình để xây dựng, củng cố vững
chắc Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Nhà nước và bộ máy chính quyền các cấp thật sự là công bộc của nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, hết lòng vì nhân dân. Chăm lo xây dựng Hiến
pháp và hệ thống luật pháp phản ánh ý chí, nguyện vọng, lợi ích và quyền lực của
nhân dân, quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân. Hoạt động thực tiễn của
chính quyền nhà nước và nội dung Hiến pháp, pháp luật cũng thể hiện đường lối,
mục tiêu cách mạng của Đảng Cộng sản. Do hoàn cảnh lịch sử lúc đó mà Đảng phải
rút vào bí mật (11-11-1945). Nhưng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, dù là
bí mật, Đảng vẫn lãnh đạo chính quyền và nhân dân. Chính nhờ sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh mà bản chất cách mạng, bản chất nhân dân, tính chất dân
chủ triệt để được giữ vững và tăng cường. Cũng nhờ sự lãnh đạo đó mà sức mạnh
và thực lực của chính quyền nhân dân không ngừng được củng cố, bảo đảm cho Nhà
nước non trẻ vượt qua được những khó khăn, thách thức, hiểm nghèo giữ vững và
phát triển thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử.
Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 về phương diện xây dựng Nhà nước kiểu mới mãi mãi là bài học lớn,
là định hướng sáng rõ cho đến ngày nay và nhiệm vụ sắp tới trong việc xây dựng
và không ngừng hoàn thiện Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đại hội
IX Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra những quan điểm và biện pháp cơ bản về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội chỉ rõ
: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân". Đó là sự tiếp tục phát
triển thành quả của Cách mạng Tháng Tám và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong thời
kỳ mới.
HIẾN PHÁP NĂM 1946 VƠI TƯ TƯỞNG PHÁP
QUYỀN
TS Nguyễn Sĩ Dũng
Nếu pháp quyền là những nguyên tắc và
phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự
do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ thì Hiến pháp năm 1946 đã phản ánh đúng
tinh thần đó.
60 năm đã trôi qua kể từ mùa thu năm
ấy. Sống mãi với thời gian là các giá trị của Cách mạng tháng Tám: độc lập, tự
do, dân chủ. Sống mãi với thời gian là tư tưởng pháp quyền kết tinh trong bản
hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bản hiến pháp đó còn
được gọi là Hiến pháp 1946.
Hiến pháp 1946 là một bản hiến văn
hết sức ngắn gọn, súc tích. Toàn bộ bản hiến văn chỉ gồm 70 điều. Trong đó có
những điều chỉ vẻn vẹn một dòng. (Ví dụ Điều 12 được viết như sau: “Quyền tư
hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”). Một trong những lý do giải
thích sự ngắn gọn này là: Hiến pháp 1946 đã được thiết kế theo tư tưởng pháp
quyền.
Nếu pháp quyền là những nguyên tắc và
phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự
do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ thì Hiến pháp năm 1946 đã phản ánh đúng
tinh thần đó.
Trước hết, để lạm quyền không thể xảy
ra thì hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà nước. Về mặt lý luận, điều này có thể
đạt được bằng hai cách: 1- Hiến pháp phải do Quốc hội lập hiến thông qua; 2-
Hoặc hiến pháp phải do toàn dân thông qua. Hiến pháp 1946 đã thực sự do một
Quốc hội lập hiến thông qua. Theo quy định của Hiến pháp 1946, nước ta không có
Quốc hội mà chỉ có Nghị viện nhân dân với nhiệm kỳ ba năm. Như vậy, nếu không
có chiến tranh, sau khi thông qua hiến pháp, Quốc hội sẽ tự giải tán để tổ chức
bầu Nghị viện nhân dân. Nghị viện nhân dân không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp.
Mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều 70 Hiến pháp
1946).
Hai là các quyền của người dân được
Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm. Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì cao hơn là nhà
nước ghi nhận và bảo đảm. Vì rằng nếu nhà nước ghi nhận và bảo đảm thì quyền
chủ động là thuộc nhà nước, nhưng nếu hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì nhà
nước không có quyền chủ động ở đây.
Ba là quyền năng giữa các cơ quan nhà
nước được phân chia khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã
được thiết kế. Ví dụ “quyền kiểm soát và phê bình Chính phủ” của Ban thường vụ
Nghị viện (Điều 36 Hiến pháp1946); quyền của “nghị viên không bị truy tố vì lời
nói hay biểu quyết trong Nghị viện” (Điều 40 Hiến pháp1946); Thủ tướng có quyền
nêu vấn đề tín nhiệm để Nghị viện biểu quyết (Điều 54 Hiến pháp 1946)…
Bốn là quyền năng giữa chính quyền
trung ương và chính quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ. Nghị viện nhân
dân chỉ quyết định những vấn đề “chung cho toàn quốc” (Điều 23 Hiến pháp 1946).
Hội đồng nhân dân được quyền quyết định “những vấn đề thuộc địa phương mình”
(Điều 59 Hiến pháp 1946).
Cuối cùng, vai trò độc lập xét xử của
toà án được bảo đảm. Điều này đạt được nhờ hai cách: một là các toà được thiết
kế không theo cấp hành chính (Điều 63 Hiến pháp 1946); hai là khi xét xử, thẩm
phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp” (Điều 69
Hiến pháp 1946).
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN VÀ VÌ NHÂN DÂN
Tô
Huy Rứa
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về
bản chất, chức năng, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức nhà nước; trong đó, quan niệm về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng
nhất quán, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền. Trong di sản
lý luận của mình, Hồ Chí Minh đã có lần chính thức sử dụng thuật ngữ "chế
độ pháp trị". Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức,
điều hành đời sống xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật
là dân chủ, tiến bộ và có tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại.
Nhận thức được tầm quan trọng của
luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đề cập đến vai trò của chúng trong điều
hành và quản lý xã hội. Năm 1919, tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội
nghị Véc- xây đã có 4 điểm liên quan đến vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan
đến công lý và quyền con người.
Sau này, bản Yêu sách của nhân dân An
Nam được Hồ Chí Minh chuyển thành "Việt Nam yêu cầu ca", trong đó yêu
cầu thứ bảy là:
"Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm điều phải có thần linh pháp
quyền"(1)
"Trăm điều" là một đại
lượng được sử dụng theo cách ẩn dụ để đề cập một cái chung, bao quát. Còn
"thần linh pháp quyền" là một cách nói theo ngôn ngữ ngày nay, là ý
thức, tinh thần pháp luật phải chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, hoạt động của bộ
máy, cơ quan nhà nước; môi trường pháp lý phải bao trùm mọi mặt, mọi lĩnh vực
đời sống xã hội. Đây là tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh nội dung
cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới - Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng
thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của
Người.
Sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Hồ
Chí Minh đề ra một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa là: Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Cùng với chủ trương xây
dựng Hiến pháp, ngày 10-10-1945, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh SL/47 cho phép sử
dụng một số điều khoản của pháp luật cũ để điều chỉnh các quan hệ dân sự. Trong
nhận thức của Hồ Chí Minh, pháp luật của các chế độ xã hội có những giá trị
nhân bản chung mà chúng ta có thể kế thừa, phát triển. Ở đây, Hồ Chí Minh đã
nhìn nhận pháp luật trong chiều sâu văn hóa của nó.
Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, nhiều quy định trong Hiến pháp năm 1946 không còn phù hợp, Hồ Chí Minh
đã chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959. Trong tư
duy Hồ Chí Minh, một khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật,
nhất là đạo luật "gốc" - Hiến pháp, cũng phải thay đổi để bảo đảm khả
năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình.
Ngoài hai bản Hiến pháp, từ năm 1945
đến 1969, Hồ Chí Minh còn chỉ đạo soạn thảo, ký quyết định công bố 16 đạo luật
và 1.300 văn bản dưới luật. Khối lượng văn bản luật đó luôn thể hiện rõ việc đề
cao tính nhân đạo và nhân văn, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của nhà nước mà
nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Pháp
luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực
tế. Nhà nước ta cũng sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Song pháp luật của ta
đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp công nhân, là một loại
hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do,
dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Tuy nhiên, pháp luật dân chủ ở Hồ Chí
Minh cũng được xem xét trong các mối quan hệ hết sức đặc trưng:
- Trong quan niệm về thực chất của
dân chủ: "Không nên hiểu lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn
cãi. Nhưng khi đã quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng
chỉ là để bàn cách thi hành cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không
thực hiện. Phải cấm chỉ những hành động tự do quá trớn ấy" (2).
- Trong việc xác định rõ giới hạn của
các quyền tự do cá nhân, Người nói: Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong
kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người
khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức là phạm đến tự do của
người khác, là phạm pháp. Không thể có tự do cho bọn việt gian, bọn phản động,
bọn phá hoại tự do của nhân dân.
- Trong việc xử lý mối quan hệ giữa
quyền và nghĩa vụ công dân, pháp luật dân chủ vừa thể hiện các quyền, lợi ích
của công dân, nhưng cũng quy định rõ các nghĩa vụ mà người dân phải thực hiện.
Hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ là thuộc tính hai mặt của một người dân làm
chủ nhà nước.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Pháp luật của
ta là pháp luật dân chủ; mọi công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều
bình đẳng trước pháp luật cả về quyền lợi và nghĩa vụ; ai vi phạm pháp luật đều
phải xử lý nghiêm khắc, cho dù người đó ở vị trí nào trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của Đảng, Nhà nước. Theo Người, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi
mọi người đều nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; pháp chế chỉ bảo đảm khi các
quy phạm pháp luật được thực thi trong các quan hệ xã hội; mọi hành vi vi phạm
pháp luật phải bị xử lý. Như vậy, trong thực thi luật pháp, việc thưởng phạt
phải nghiêm minh. Vì nếu thưởng phạt không nghiêm minh thì người cúc cung tận
tụy lâu ngày cũng thấy chán nản, còn người hư hỏng, vi phạm pháp luật, kỷ luật
sẽ ngày càng lún sâu vào tội lỗi, làm thiệt hại cho nhân dân. Trong một nước,
thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng
lợi, kiến quốc mới thành công.
Muốn pháp luật nghiêm minh, phát huy
hiệu lực, cần có các điều kiện:
Trước hết, pháp luật đó phải đúng và phải đủ.
Pháp luật đúng là pháp luật phản ánh trung thành bản chất các quan hệ xã hội
khách quan, tiếp cận đến chân lý, mà chân lý là tất cả những gì phù hợp với lợi
ích của nhân dân. Còn pháp luật đủ là phải có tính đồng bộ, bao quát được các
mặt, các loại quan hệ, các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ hai, pháp luật phải đến được với dân,
"đi vào giữa dân gian". Để pháp luật được thực thi trong đời sống xã
hội phải chú trọng giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho mọi đối tượng dân cư,
làm cho họ biết, hiểu và thực hiện đúng. Trong điều kiện dân trí còn thấp, học
vấn hạn chế, văn hóa dân chủ chưa cao, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật
càng trở nên cần thiết.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một "công đoạn" trong toàn bộ quy
trình xây dựng - thông qua, ban hành - thực hiện, giám sát - sửa đổi, điều
chỉnh pháp luật. Tại Hội nghị thảo luận Luật Hôn nhân và Gia đình, vấn đề này
đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: "công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc
đều xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt".
Muốn dân hiểu, dân nhớ để làm theo, trong tuyên truyền phải biết cách diễn đạt
đơn giản, ngắn gọn, nhưng tuyệt đối chính xác, phù hợp với đặc điểm tâm lý,
tính cách, văn hóa của các đối tượng dân cư từng khu vực, từng miền trên đất
nước.
Thứ ba, cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp
phải thật sự công tâm và nghiêm minh. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên có
nhiệm vụ "gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của các đoàn
thể cách mạng của quần chúng mà mình tham gia". Người nhiều lần phê phán
những cán bộ, đảng viên không chấp hành pháp luật của Nhà nước, cá nhân chủ
nghĩa sinh ra tự do chủ nghĩa, không tôn trọng pháp luật và thể lệ nhà nước,
làm gương xấu cho quần chúng nhân dân.
Trong việc giữ vững tính nghiêm minh
và hiệu lực của pháp luật, cán bộ làm công tác tư pháp có vai trò quan trọng.
Họ chính là người trực tiếp thực thi luật pháp, đại diện cụ thể cho "cán
cân công lý". Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu ở họ phải có phẩm chất đạo đức
cần thiết: Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch như thế
cũng chưa đủ vì không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung tòa án mà
còn phải gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để giúp mình thêm liêm khiết,
thêm công bằng, trong sạch.
Đối với những người lợi dụng chức vụ,
quyền hạn vi phạm pháp luật hoặc xử lý không đúng, không nghiêm các trường hợp
vi phạm pháp luật, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Có cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền thế
của Đảng và Nhà nước làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xâm phạm
đến lợi ích vật chất và quyền tự do dân chủ của nhân dân, nhưng cũng chưa bị xử
lý kịp thời..., như vậy là kỷ luật chưa nghiêm. Người yêu cầu kiên quyết trừng
trị những kẻ vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền lợi của công dân, làm cho nhân
dân bất bình, oan ức.
Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải
là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con
người. Tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ dừng lại ở các quyền con người
được ghi trong các văn bản pháp luật mà còn thấm đượm một tấm lòng thương yêu
nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái,
nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, pháp
quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp quyền nhân nghĩa - một thứ
nhân nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc.
Trên thế giới, từ cổ chí kim, từ Đông
sang Tây tồn tại hai phương thức trị nước chủ yếu: đức trị và pháp trị. Bản
thân Hồ Chí Minh cũng đã có lần đề cập đến chế độ pháp trị: ... Tư pháp cần góp
phần của mình là thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi
nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân. Nhưng trong thực tế, Người đã kết hợp
chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật với việc tuyên truyền,
giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh công dân, giác ngộ lý tưởng cách
mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh nhận rõ cả pháp
luật và đạo đức đều dùng để điều chỉnh hành vi của con người, nâng con người
lên, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Pháp luật góp phần hoàn thiện
nhân cách làm người, còn đạo đức làm cho người ta thực hiện luật pháp một cách
tự giác. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức là cơ sở để xây dựng, thực
hiện pháp luật. Nền pháp quyền của ta là một nền pháp quyền hợp đạo đức, có
nhân tính. Hồ Chí Minh lý giải: nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn
đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải
thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Phải làm sao đóng
góp vào việc làm cho nước độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi
đau khổ.
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp
luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở quan niệm xử lý các hành vi
phạm pháp, nguyên tắc "có lý","có tình" chi phối mọi hành
vi ứng xử của con người, tôn trọng cái lý, đề cao cái tình, tùy từng trường
hợp, tình huống cụ thể mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt này hay mặt khác. Xử lý
hành vi vi phạm pháp luật phải kịp thời, nghiêm minh. Pháp luật không loại trừ
một ai, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác, khuyến khích, nâng đỡ, phát
huy cái tốt, cái thiện vốn có trong mỗi con người, chứ không đơn thuần trừng
phạt, răn đe. Trong việc thực thi pháp luật cũng phải bảo đảm tính hài hòa giữa
các mặt tưởng chừng như đối lập nhau. Phương châm của Hồ Chí Minh là: không xử
phạt là không đúng; song, cái gì cũng trừng phạt cả cũng là không đúng, nên
phải tránh lạm dụng pháp luật. Tính nghiêm minh và hiệu lực của luật pháp không
chỉ phụ thuộc vào sự đúng đắn của pháp luật mà trong quan hệ thực tế còn phụ thuộc
vào cả cái tâm của chính người đại diện cho pháp luật.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp
thu các giá trị tư tưởng hiện đại của loài người, trước nhu cầu thực tiễn phát
triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương lãnh đạo xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta. Quan điểm về nhà nước pháp quyền của Đảng là một bộ phận
hợp thành tổng thể lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Nhận thức của Đảng về nhà nước pháp
quyền là một quá trình. Trước những năm 90 của thế kỷ XX, trên bình diện lý
luận, chúng ta chỉ dùng các khái niệm "Nhà nước chuyên chính vô sản",
"Nhà nước xã hội chủ nghĩa". Đến năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn
quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII, khái niệm "nhà nước pháp quyền"
đã được nêu lên. Từ đó, Đảng ta nhận thức rất rõ rằng, nhà nước pháp quyền là
một thành tựu vĩ đại của tư tưởng nhân loại; xét về bản chất, không chỉ có một
loại nhà nước pháp quyền duy nhất; mà dựa trên cơ sở kinh tế - xã hội, bản chất
chế độ xã hội khác nhau, vẫn tồn tại Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa và
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức này ngày càng thống nhất
trong toàn Đảng và được khẳng định rõ tại Đại hội IX của Đảng (4-2001): Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi
cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến
pháp và pháp luật. Quan điểm này đã được thể hiện trong việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và
cụ thể hóa trong Điều 2: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trong Dự thảo Đề cương các Văn kiện
trình Đại hội X của Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa được khẳng định thành một vấn đề có tính nguyên tắc với các nội dung:
nghiên cứu, thể chế hóa và xây dựng cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên
tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp,
đồng thời định rõ cơ chế, cách thức bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật
trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực hiện nguyên tắc này, trên thực
tế là tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền trong
những điều kiện và yêu cầu phát triển mới của đất nước. Cụ thể là:
- Cần phải nhận thức đúng đắn vai trò
của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, bảo đảm để pháp luật trở thành phương
tiện cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình, sống và làm việc theo Hiến
pháp, pháp luật.
- Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, đáp ứng tốt và kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
- Kiện toàn, nâng cao chất lượng các
cơ quan làm luật, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đủ phẩm chất và năng lực.
- Đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức
pháp luật cho nhân dân, coi trọng tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích, hỗ trợ
tư vấn pháp luật, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; giáo dục pháp
luật phải gắn liền với giáo dục đạo đức cách mạng.
- Pháp luật phải được thực thi nghiêm
chỉnh từ cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước đến các tổ chức xã hội và
công dân; mọi hành động vi phạm pháp luật phải được xử lý đúng, kịp thời, không
để sót người, sót tội, không gây oan ức cho người vô tội...
- Tăng cường vai trò và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền, nhất là nâng cao tầm trí tuệ và tư duy lý luận của Đảng trong chỉ
đạo định hướng xây dựng hệ thống pháp luật.
QUAN ĐIỂM CỦA V.I LÊ –NIN VỀ NHÀ NƯỚC
VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Trần
Ngọc Liêu
Những đóng góp to lớn của V.I.Lê-nin
đối với lý luận về nhà nước không chỉ ở việc làm sáng tỏ những quan điểm căn
bản của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về nhà nước, đem lại vũ khí lý luận sắc bén cho
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, giành lấy, tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước, cũng như đấu tranh chống lại mọi âm mưu hòng xuyên tạc, bẻ cong và
nhằm bác bỏ lý luận mác-xít về nhà nước; mà còn thể hiện ở việc đi sâu, phát
triển lý luận mác-xít về nhà nước trên một số phương diện, phù hợp với trình độ
phát triển mới của thực tiễn. Nghiên cứu quan điểm của V.I.Lê-nin về nhà nước
đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền Việt Nam
hiện nay, bởi lẽ những quan điểm ấy đã được hiện thực hóa, trở thành một thực
thể sống động trong thực tiễn đời sống.
Nhất quán với tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin tiếp tục khẳng định rằng, nhà nước là một hiện
tượng lịch sử, sự tồn tại và tiêu vong của nó là tùy thuộc vào những điều
kiện cụ thể; “nhà nước chỉ là một tổ chức thống trị của một giai cấp” và “bất
cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp
khác”.
Đối với V.I.Lê-nin, khái niệm “nhà
nước” là để chỉ bộ máy nhà nước trong xã hội có giai cấp. Ông viết: “đặc trưng
của nhà nước là sự tồn tại của một giai cấp đặc biệt, tập trung quyền lực
trong tay. Dĩ nhiên, không ai có thể dùng hai tiếng nhà nước để gọi một cộng
đồng, trong đó tất cả mọi thành viên đều thay phiên nhau quản lý “tổ
chức của trật tự’”. Chính sự tập trung quyền lực chính trị trong tay một giai
cấp đặc biệt là đặc trưng để phân biệt nhà nước với mọi hình thức tổ chức xã
hội khác. V.I.Lê-nin vạch rõ: “Nếu quyền lực chính trị trong nước nằm trong tay
một giai cấp có quyền lợi phù hợp với quyền lợi của đa số, thì mới có thể thực
hiện việc điều khiển công việc quốc gia thực sự theo đúng nguyện vọng của đa
số. Nhưng nếu quyền lực chính trị nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi khác
với quyền lợi của đa số, thì việc điều khiển công việc quốc gia theo nguyện
vọng của đa số không khỏi trở thành một sự lừa gạt, hoặc đưa đến chỗ đàn áp đa
số ấy”. Ông giải thích: “Quyền chính trị là gì, nếu không phải là cách
diễn đạt, là việc ghi nhận so sánh lực lượng?”. Đây chính là sự phát triển quan
điểm: quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của
một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác của C.Mác và Ph.Ăng-ghen.
Về bản chất giai cấp của nhà nước,
V.I.Lê-nin khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn
giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng nào
mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”.
Nếu như xã hội đã từng tồn tại không
cần có nhà nước, thì cùng với sự phát triển của sản xuất, xã hội loài người sớm
muộn cũng sẽ đạt tới trình độ loại bỏ nhà nước. V.I.Lê-nin viết: “Mục đích cuối
cùng mà chúng ta theo đuổi, là thủ tiêu nhà nước, nghĩa là thủ tiêu mọi bạo lực
có tổ chức và có hệ thống, mọi bạo lực, nói chung, đối với con người. Chúng ta
không mong có một chế độ xã hội mà trong đó nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số
sẽ không được tuân theo. Nhưng khi hướng đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta tin chắc
rằng chủ nghĩa xã hội sẽ chuyển thành chủ nghĩa cộng sản, và do đó, nói chung
sẽ không còn cần thiết phải dùng bạo lực đối với con người, không cần thiết
phải buộc người này phục tùng người khác, bộ phận dân cư này phục
tùng bộ phận dân cư khác, vì người ta sẽ quen tuân theo những
điều kiện thông thường của đời sống tập thể, mà không cần có bạo lực và
không cần có phục tùng”. Nghĩa là, khi đó nhà nước sẽ tự tiêu vong.
Tuy nhiên, để nhà nước có thể tự tiêu
vong, cần có nhiều điều kiện, trong đó, quan trọng nhất là, nhà nước phải trải
qua một hình thức tồn tại đặc biệt của nó: Nhà nước chuyên chính vô sản. Nhưng
để có được nhà nước chuyên chính vô sản, tất yếu phải dùng đến bạo lực cách
mạng. V.I.Lê-nin chỉ rõ: “Không có cách mạng bạo lực thì không thể thay nhà
nước tư sản bằng nhà nước vô sản được. Việc thủ tiêu nhà nước vô sản, nghĩa là
việc thủ tiêu mọi nhà nước, chỉ có thể thực hiện được bằng con đường “tiêu
vong” thôi”. Bạo lực cách mạng là phương thức duy nhất để một giai cấp mới,
tiến bộ giành lấy quyền lực chính trị. Điều đó đúng đối với giai cấp vô sản và
hơn thế, với giai cấp vô sản, bạo lực cách mạng còn phải thực hiện một nhiệm vụ
quan trọng nữa, đó là đập tan bộ máy nhà nước cũ trước khi bắt tay xây dựng nhà
nước kiểu mới.
Tính chất đặc biệt của nhà nước
chuyên chính vô sản với tư cách hình thức chuyển tiếp trước khi đạt đến trạng
thái tự tiêu vong của nhà nước được V.I.Lê-nin làm rõ trong việc phân tích mối
quan hệ biện chứng giữa tính chuyên chính và tính dân chủ của
nhà nước.
Trước hết, V.I.Lê-nin khẳng định,
“trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, sự
trấn áp vẫn còn tất yếu, nhưng nó đã là sự trấn áp của đa số bị bóc
lột đối với thiểu số bóc lột. Cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là “nhà
nước” vẫn còn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước quá độ, mà không còn
là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa”
và nhà nước vô sản phải là một công cụ, một phương tiện; đồng thời, là
một biểu hiện tập trung trình độ dân chủ của nhân dân lao động. Dân chủ trong
xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nhân dân tham gia vào mọi công việc của nhà
nước. Người viết: “Điều cần thiết không phải chỉ là cơ quan đại biểu
theo kiểu chế độ dân chủ, mà là toàn bộ việc quản lý nhà nước từ dưới lên phải
do bản thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia vào từng bước của
cuộc sống và đóng vai trò tích cực trong việc quản lý”.
V.I.Lê-nin cho rằng, nếu tính giai
cấp là bản chất của mọi nhà nước, thì dân chủ hay chuyên chính cũng chỉ là hai
mặt của bản chất đó mà thôi. “Bất cứ một nhà nước nào cũng đều có nghĩa là dùng
bạo lực; nhưng toàn bộ sự khác nhau là ở chỗ dùng bạo lực đối với những người
bị bóc lột hay đối với kẻ đi bóc lột, ở chỗ có dùng bạo lực đối với giai cấp
những người lao động và những người bị bóc lột không”. Đối với V.I.Lê-nin:
“Chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản là một chính quyền do giai cấp vô
sản giành được và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản...” .
Chuyên chính vô sản không hề đối lập
với dân chủ, mà là phần bổ sung, là hình thức thể hiện của dân chủ. “Chuyên
chính vô sản, nghĩa là việc tổ chức đội tiền phong của những người bị áp bức
thành giai cấp thống trị để trấn áp bọn áp bức, thì không thể giản đơn đóng
khung trong việc mở rộng chế độ dân chủ được. Đồng thời với việc mở
rộng rất nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ
cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu -
chuyên chính vô sản còn thực hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do đối
với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản”.
Điều cần quan tâm là, trong xã hội xã
hội chủ nghĩa - lực lượng đóng vai trò thống trị trong xã hội, và vì thế nắm
quyền chuyên chính, dân chủ và pháp luật là đại đa số nhân dân lao động.
“Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn
áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng: đó là sự biến đổi
của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa cộng sản”.
Như vậy, sự phát triển của V.I.Lê-nin
đối với quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về nhà nước, điểm quan trọng nhất
chính là ở chỗ, đặc tính phổ biến của mọi nhà nước đó là giai cấp. Như thế,
biểu hiện về mặt lịch sử trong suốt quá trình phát triển của xã hội loài người
là mối quan hệ biện chứng của hai mặt chuyên chính và dân chủ. Rõ ràng, trên phương
diện này, nhà nước là một cách thức tổ chức đời sống xã hội, một giai đoạn
trong tiến trình phát triển của xã hội, là một vòng khâu của sự phát triển. Đây
chính là quan niệm duy vật và biện chứng có tính nguyên tắc trong việc lý giải
đời sống xã hội nói chung, vấn đề nhà nước nói riêng và gắn liền với những cố
gắng to lớn của V.I.Lê-nin trong sự phát triển chủ nghĩa Mác.
Đối với nước ta, vấn đề xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là một nhiệm vụ chính trị
quan trọng. Để thành công, chúng ta vừa phải đứng vững trên lập trường lý luận
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa phải kế thừa được những thành quả xây
dựng nhà nước pháp quyền đã có trên thế giới, vừa phải xuất phát từ thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng của V.I.Lê-nin về nhà nước
được hình thành trên cơ sở sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về
nhà nước vào điều kiện cụ thể của nước Nga và tình hình thế giới những năm đầu
thế kỷ XX. Những tư tưởng ấy chứa đựng nhiều giá trị có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn quan trọng đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay.
Trước hết, nhà nước là một hiện tượng lịch sử,
nó được hình thành từ những xã hội xác định và bị quy định bởi xã hội đã sản
sinh ra nó. Tất nhiên giữa các quốc gia - dân tộc có những điểm chung nhất
định, mang tính phổ biến. Vì vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với tính
cách là nhà nước pháp quyền thì cũng mang những đặc điểm chung nhất
định. Tuy vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải phản ánh được
những đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội của Việt Nam. Nó vừa có những điểm
tương đồng, vừa có những nét khác biệt với nhà nước pháp quyền ở các quốc gia -
dân tộc khác. Ngay cả những nét tương đồng hay khác biệt ấy cũng chỉ có thể có
được và hiểu được nếu xuất phát từ hiện thực xã hội Việt Nam, chứ không phải là
được áp đặt từ bên ngoài vào.
Thứ hai, dù quan niệm về nhà nước pháp quyền
như là một mô hình nhà nước, một cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, hay một
nhà nước mang những tính chất xác định, thì đã là nhà nước đều mang tính giai
cấp - kể cả nhà nước pháp quyền. Đó là một quy định lịch sử. Việc không nhận
thấy bản chất giai cấp của nhà nước pháp quyền là một biểu hiện của nhận thức
ấu trĩ, mơ hồ, hay cơ hội về chính trị. Không thể có một nhà nước siêu giai
cấp. Chúng ta thừa nhận có nhà nước pháp quyền tư sản, thì có nghĩa là, nhà
nước pháp quyền ấy, xét về bản chất, là công cụ quyền lực trong tay giai cấp tư
sản, và trước hết phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Như vậy, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với việc chúng ta phải tính tới
những đặc trưng nhất định góp phần phân biệt cái gọi là nhà nước pháp quyền với
các mô hình, hay các cách thức tổ chức nhà nước khác, song chúng ta cần nhớ
rằng, nhà nước ấy là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và phải
phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Đó là đặc trưng bản chất của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, nền tảng và nội dung của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là dân chủ. Thực ra nhà nước ấy, cần
phải được hiểu đó là một phương thức thực hiện dân chủ một cách hữu hiệu trong
lĩnh vực chính trị, và nó được hình thành cùng với sự trưởng thành của xã hội
dân chủ. Nhà nước pháp quyền là một khái niệm dùng để chỉ xã hội được tổ chức
theo cách quyền lực của nhân dân được luật hóa và được đảm bảo thực thi bằng hệ
thống chính trị, trong đó trước tiên và trực tiếp là bộ máy nhà nước.
Rõ ràng, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, trước hết phải đảm bảo tốt khâu luật hóa
quyền lực của nhân dân. Xây dựng và ngày càng hoàn thiện hệ thống Hiến pháp,
pháp luật chính là một thước đo sự hình thành nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên,
hình thức luật là quan trọng, song điều quan trọng hơn là ở nội dung của luật
là quyền lực của nhân dân lao động. Hơn thế, để hình thành nhà nước pháp quyền
theo đúng nghĩa của nó, khâu đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân dưới hình
thức luật cũng hết sức quan trọng. Nếu quyền lực của nhân dân mới chỉ được luật
hóa, mà không được thực thi hoặc thực thi không đầy đủ, thì rõ ràng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới được hình thành một phần. Thực thi quyền lực
của nhân dân lao động dưới hình thức luật chính là một thước đo quan trọng đối
với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bởi lẽ đó là bước mà tính chất pháp
quyền chuyển hóa từ lĩnh vực ý thức xã hội sang lĩnh vực tồn tại xã hội, nói
cách khác, chính quá trình triển khai trong đời sống mà nhà nước pháp quyền trở
thành một tồn tại hiện thực.
Tuy nhiên, do nội dung của hệ thống
luật chính là quyền lực của nhân dân, nên quá trình thực thi và đảm bảo thực
thi quyền lực của nhân dân dưới hình thức luật còn phải được đảm bảo bởi các
thiết chế khác trong hệ thống chính trị. Chỉ có một hệ thống luật với nội dung
là ghi nhận và thừa nhận quyền lực của nhân dân mới có thể tạo điều kiện cho
toàn thể hệ thống chính trị tham gia thực thi luật chứng tỏ nội dung của hệ
thống luật ấy đã mang tính xã hội hóa cao độ. Quan hệ tương hỗ biện chứng này
cũng là một thước đo phản ánh trình độ trưởng thành của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Nhưng cũng chính ở đây, ta thấy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của chúng ta càng trưởng thành bao nhiêu, vai trò của các thiết chế khác
nhà nước trong hệ thống chính trị trong việc đảm bảo thực thi quyền lực của
nhân dân dưới hình thức luật càng lớn bao nhiêu, thì tính tự quản xã hội càng
tăng lên bấy nhiêu. Điều này có nghĩa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam chính là một nhà nước quá độ của thời kỳ quá độ và nó càng hoàn thiện thì
càng có nghĩa đang tiến nhanh trên con đường đi đến tự “tiêu vong” đúng theo
lô-gích mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin từng chỉ rõ, khi chúng ta
tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
THẦN LINH PHÁP QUYỀN
|
Nguyễn
sỹ Dũng
|
|
hiến pháp Việt
Na“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
(Hồ Chí Minh)
Pháp quyền về
bản chất gắn với “thần linh”. Và người đầu tiên không ngại nói ra điều ấy
chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, Chủ
tịch Hồ Chí Minh, có lẽ, cũng là người Việt Đầu tiên nói đến pháp quyền. Năm
1919, trong bản yêu sách gửi đến hội nghị Versaille, yêu sách thứ 7 được người
đề ra là pháp quyền. Sau này, yêu sách đó được Bác thể hiện thành lời ca: “Bảy
xin hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” (Yêu cầu ca,
báo Nhân Dân, ngày 30/1/1977). Điều dễ nhận thấy mà chỉ về “pháp quyền”. Thế
thì, cái chúng ta cần là một nền pháp quyền hay là một nhà nước pháp quyền?
Thực ra, thuật
ngữ “nhà nước pháp quyền”, có thể, do được dịch từ tiếng nước ngoài nên không
thật sáng tỏ về mặt khái niệm. (Thuật ngữ này trong tiếng Nga chắc là
“pravavoe goxudarstvo”). Hiện nay, theo nhận thức của đa số người Việt, nhà
nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. So với việc quản
lý xã hội bằng mệnh lệnh hành chính, cách hiểu này là một tiến bộ to lớn
trong tư duy pháp lý của người Việt. Tuy nhiên, pháp quyền là một cái gì đó
vĩ đại và tốt đẹp hơn như thế rất nhiều.
Trong tiếng
Anh, không có khái niệm “nhà nước pháp quyền”. Thay vào đó, các nước theo
truyền thống Anh – Mỹ chỉ nói đến pháp quyền hay chính xác hơn là nói đến “sự
thống trị của pháp luật” (the rule of law) mà thôi. Hai từ “nhà nước” thậm
chí không được nhắc tới trong thuật ngữ này. Chính vì vậy, khi dịch khái niệm
“nhà nước pháp quyền” của ta sang tiếng Anh, bạn buộc lòng phải biến nó thành
một thứ dài lê thê như sau: “nhà nước bị điều chỉnh bởi pháp quyền” (the law
governed by the rule ò law) hoặc “nhà nước bị điểu chỉnh bởi pháp luật” (the
law governedstate). Trong tiếng pháp khái niệm tương ứng là “nhà nước của
pháp luật” (Etat de droit). Chúng ta có thể hiểu: nhà nước không phải là con
người, mà là của pháp luật. Sự so sánh các thuật ngữ lòng vòng này cho thấy:
tinh thần tối thượng của pháp luật là bản chất của pháp quyền.
Như vậy, về mặt
khái niệm, pháp quyền là một phương thức tổ chức xã hội mà trong đó pháp luật
giữ vai trò thống trị. Pháp luật đứng trên Nhà nước, trên tất cả các tổ chức
kinh tế, chính trị xã hội, các công dân và điều chỉnh tất cả các chủ thể này.
Tất cả các chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật. Tình trạng một chủ thể chỉ
có quyền, còn các chủ thể khác thì chỉ có trách nhiệm là điều không thể xảy
ra. Hơn thế nữa, khi có tranh chấp giữa các chủ thể, tòa án bao giờ cũng phải
xét xử nhân danh nhà nước thì việc kiện nhà nước sẽ rất khó khăn. Như vậy,
nhà nước pháp quyền chỉ nên được hiểu là nhà nước bị điều chỉnh bởi pháp luật,
hơn là nhà nước có quyền ban hành pháp luật để quản lý xã hội. Nhân đây, pháp
quyền và pháp trị, có lẽ, tương đồng với nhau. Pháp trị đối lập với nhân trị.
Nhân trị thì chia thành hai loại; loại độc tài (do một người cai trị) và loại
tập thể lãnh đạo (do một tập thể cai trị). Nhân trị không đồng nghĩa với sự xấu
xa. Đơn giản, đây chỉ là mô hình tổ chức xã hội có độ rủi ro cao. Lý do là
trong hàng ngàn năm, vua Nghiêu, vua Thuấn (những ông vua anh minh và tốt bụng
trong truyền thuyết của Trung Quốc) may ra chỉ xuất hiện một lần. Và ngay cả
trong trường hợp này, một ông vua anh minh cũng khó có thể anh minh được suốt
cả cuộc đời. Thời gian trôi đi, sự anh minh của ngày hôm qua có thể không còn
hữu dụng cho ngày hôm nay nữa. Tệ hơn, nò còn có thể làm tê liệt khả năng phản
ứng kịp thời trước một thế giới luôn luôn thay đổi. Pháp trị, vì vậy, là mô
hình tổ chức xã hội ít rủi ro hơn.
Mọi lý lẽ nói
trên về pháp quyền sẽ đi vào ngõ cụt nếu vấn đề sau đây không được lý giải;
nhà nước có quyền ban hành pháp luật thì làm sao pháp luật có thể đứng trên
nhà nước được? Đây là lúc chúng ta cần tìm lời giải trong khái niệm “thần
linh pháp quyền” của Bác. Khái niệm này được làm sáng tỏ trong bản Tuyên ngôn
độc lập trứ danh của dân tộc ta. Bác đã mở đầu ánh văn bất hủ này bằng những
dòng sau đây: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Như vậy, theo Tuyên ngôn độc lập,
các quyền của con người là do tạo hóa ban cho, và những quyền đó là bất khả
xâm phạm. Đây là “pháp luật của tạo hóa” (còn được gọi là pháp luật tự nhiên)
và là pháp luật cao nhất. Các đạo luật do nhà nước ban hành chỉ là thứ phát.
Chúng sẽ bị coi là vô hiệu nều trái với “pháp luật của tạo hóa”. Chính vì vậy,
những quyền do tạo hóa ban cho con người bao giờ cũng là phần cầu thành quan
trọng nhất của luật hiến pháp. Và các thiết chế bảo hiến được đề ra thực chất
là để bảo đảm pháp quyền. Pháp quyền gắn liền với “pháp luật của tạo hóa” là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến cách gọi “thần linh pháp quyền’. Đây cũng là lý do
tại sao tác giả đã khẳng định pháp quyền về bản chất gắn với “thần linh” trong
phần đầu của bài viết này.
Đó là điều vô
giá mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh để lại. Vấn đề là phải biết thắp sáng khối óc của
chúng ta bằng tư tưởng của Người. Và sự nghiệm khai sáng nên bắt đầu từ việc
nhận thức lại pháp luật là gì, cũng như việc ghi nhận bản Tuyên ngôn độc lập
là nguồn quan trọng nhất của Luật m.
|
THỰC
HÀNH DÂN CHỦ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Trần Đình Huỳnh
Dân chủ là một giá trị xã hội. Dân
chủ cũng là một chế độ chính trị, một hình thức nhà nước.
1. Xét về mặt giá trị xã hội, dân chủ là một trong những thứ quý báu nhất của
con người, là một giá trị vĩnh hằng mà từ khi có con người, từ khi chưa có chữ
viết và chưa có khái niệm dân chủ, con người lúc đó đã có một đời sống “hoàn
toàn” dân chủ. Dù là một xã hội dân chủ sơ khai, con người lúc đó đã cùng nhau
làm chủ, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, cùng lao động, cùng chiếm hữu
tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra. Tuy nhiên, từ khi có nhà nước tới
nay, xã hội dân chủ sơ khai thơ mộng và đẹp đẽ ấy đã một đi chưa đến ngày trở lại.
Nhiều nhà tư tưởng đã bàn về cái ngày trở lại ấy và nhận thức về dân chủ là một
quá trình. Theo giả thuyết khoa học của C.Mác, cái ngày trở lại ấy sẽ là một xã
hội hiện thực, không có của riêng, không còn giai cấp, không còn nhà nước, sức
sản xuất phát triển tới mức “của cải tuôn ra dào dạt” thoả mãn mọi nhu cầu của
con người. Con người sẽ sống hoàn toàn dân chủ và bình đẳng, tự do làm chủ
thiên nhiên, xã hội và làm chủ bản thân mình. Đó là một “Con đường muôn dặm”
như Hồ Chí Minh đã từng nói, là mơ ước tương lai và hy vọng của loài người, là
mục đích phấn đấu không ngừng nghỉ của rất nhiều thế hệ người tiếp nối nhau.
Không phải cứ đập tan sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, thiết lập
được chính quyền mới thì lúc đó đã là cuộc đấu tranh cuối cùng, đã có một đời sống
hoàn toàn dân chủ và tự do.
2. Từ khi có chế độ sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất, giai cấp và nhà nước ra đời tới nay, dân chủ đã trở thành
một chế độ chính trị với những nội dung và hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào sự
phát triển trong mỗi kiểu nhà nước, ở mỗi quốc gia, dân tộc. Dân chủ từ đó gắn
liền với lợi ích giai cấp, gắn với quyền làm chủ của giai cấp này và mất (hoặc
hạn chế) quyền làm chủ của giai cấp khác. Xã hội loài người đã trải qua hai chế
độ dân chủ. Chế độ dân chủ chủ nô, mặc dầu có nhiều hạn chế, nhưng cũng là một
bước tiến so với chế độ cộng sản nguyên thủy, nhưng rồi, cùng với sự phát triển
của sản xuất, nền dân chủ chủ nô được thay bằng chế độ phong kiến chuyên chế.
Phải hàng ngàn năm sau, khi cuộc cách mạng tư sản thành công ở một số nước tư bản
phát triển và cùng với nó, nền dân chủ tư sản ra đời.
Do đặc thù của “phương thức sản xuất
châu Á”, Việt Nam không qua chế độ chiếm hữu nô lệ nên cũng không có nền dân chủ
chủ nô. Thời phong kiến, xét về thiết chế xã hội có hình thức dân chủ làng, xã
(tính tự trị làng - xã). Nếu xét về hành vi dân chủ, thì một số triều đại cũng
làm một số việc như trưng cầu ý dân - Hội nghị Diên Hồng - (nhà Trần), hoặc tuyển
dụng quan lại thông qua thi tuyển, không phân biệt đẳng cấp, giai cấp để chọn
người tài đảm trách công việc quốc gia. Từ khi bị thực dân Pháp đô hộ thì nước
ta không những mất chủ quyền quốc gia mà còn mất dần những yếu tố dân chủ ngay
cả ở làng, xã.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời
được hiến định bởi Hiến pháp đầu tiên do Quốc hội thông qua ngày 9-1-1946. Người
khai sinh ra nền cộng hoà dân chủ và bản Hiến pháp đầu tiên ấy là Chủ tịch Hồ
Chí Minh, nhà chính trị, nhà văn hoá kiệt xuất đã đưa dân tộc vào con đường
phát triển hợp quy luật, xây dựng nước ta thành một nước dân chủ của nhân dân
lao động bỏ qua nền dân chủ của giai cấp tư sản. Sự “bỏ qua” là một tiến bộ vượt
bậc của lịch sử, nhưng như các nhà kinh điển đã chỉ rõ mọi sự bỏ qua đều gặp những
khó khăn, trở lực không nhỏ. Cho đến trước Cách mạng tháng Tám - 1945 chúng ta
chưa qua một chế độ dân chủ nào, chưa có sự trải nghiệm về thực tiễn dân chủ.
Chính vì thế mà cả thể chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức và việc
thực hành dân chủ, chúng ta đều đi những bước chập chững, mắc không ít sai lầm,
khuyết điểm, phải vừa học vừa làm. Điều này được thể hiện qua nhiều bài viết,
nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn 1945-1950 và kể cả sau này.
3. Trên 60 năm xây dựng chế độ dân
chủ và thực hành dân chủ, quan niệm về dân chủ và thực hành dân chủ ở nước ta
cũng diễn biến cùng với những năm tháng đổi thay của đất nước. Dân chủ và thực
hành dân chủ là một quá trình cách mạng, không phải là một con đường thẳng tắp
mà nhiều quanh co, phức tạp. Dân chủ với tư cách là một chế độ chính trị thì việc
xây dựng nhà nước pháp quyền, trong đó cả nhà nước và công dân đều phải có
trách nhiệm xây dựng pháp luật và đặt mình dưới pháp luật, coi pháp luật là tối
thượng để đảm bảo cho nhà nước thực sự là nước dân chủ. Nghĩa là mọi tổ chức và
công dân, từ nguyên thủ quốc gia đến mỗi người dân đều phải “Tôn trọng Hiến
pháp; tuân theo pháp luật” (Điều 4, Hiến pháp 1946). Ngày nay, đọc lại Hiến
pháp 1946, do Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo, tất cả những người nghiên cứu về
dân chủ, dù khác nhau về tư tưởng và chính kiến, cũng đều phải thừa nhận rằng,
từ giữa thế kỷ XX, Việt Nam đã đạt tới những quan niệm dân chủ, sánh ngang với
bất cứ một thể chế dân chủ nào trên thế giới. Nổi bật nhất là việc xác nhận về
mặt pháp lý quyền làm chủ của nhân dân: “Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo” (Điều 1, Hiến pháp 1946). Để thực hành quyền bính ấy phải
thông qua hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Nhân dân uỷ quyền quản
lý đất nước cho các cơ quan đại diện đảm trách. Trong sự uỷ thác ấy có nguy cơ
của sự lạm quyền và cả những sai lầm khi cơ quan đại diện của dân ra các quyết
sách chính trị và ban hành các đạo luật. Do đó, nhân dân phải giữ lại một số
quyền để quyết định trực tiếp và tối hậu. Đó là quyền phúc quyết mà trước hết
và quan trọng nhất là xây dựng và sửa đổi Hiến pháp. Theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
thể hiện ở Hiến pháp 1946 thì Quốc hội được uỷ thác quyền soạn thảo Hiến pháp,
đặt ra pháp luật, sửa đổi Hiến pháp và quyết định những vấn đề quan trọng nhất
của quốc gia. Nhưng “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có
quan hệ đến vận mệnh quốc gia”; về sửa đổi Hiến pháp, “Những điều thay đổi khi
đã được Nghị viện phê chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết” (Điều 70, Hiến
pháp 1946). Quyền phúc quyết không phải là việc đưa ra cho nhân dân tham gia,
góp ý kiến hay đề nghị mà là quyền Hiến định, là điều bắt buộc các đạo luật và
cơ quan đại diện cao nhất của dân phải tuân thủ. Quyền phúc quyết là thể chế
hoá tư tưởng quan trọng nhất của Hồ Chí Minh về dân chủ: “Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, … quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân” . Một khi quyền dân chủ đã được ghi nhận trong văn bản
pháp lý cao nhất của quốc gia thì không còn tranh cãi về “thu hẹp” hay “mở rộng”,
ai có quyền “thu hẹp” hay “mở rộng” dân chủ mà là tuân thủ theo luật định.
4. Thể chế dân chủ tuy là vấn đề cơ
bản, quan trọng nhất nhưng việc thực hành dân chủ lại là điều cốt tử của thể chế
dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, phải làm sao cho nhân dân biết hưởng và biết dùng
quyền dân chủ. Chỉ có thực hành dân chủ mới có thể biến các quan niệm dân chủ
trong các lời tuyên bố thành dân chủ thực tế. Chính V.I.Lênin cũng cho rằng, mọi
điều tốt đẹp về dân chủ thì các học giả tư sản đã nói cả rồi, cái ưu việt của
chế độ dân chủ chúng ta so với dân chủ tư sản ở chỗ hiện thực hoá những điều tốt
đẹp ấy.
Để thực hành dân chủ đòi hỏi phải:
- Có đủ những văn bản luật phù hợp
với thực tiễn và được lòng dân. Nhưng văn bản luật nào cũng đều là luật thực định,
nghĩa là do giai cấp cầm quyền định ra thông qua cơ quan đại diện của dân soạn
thảo và ban bố. Vậy thực hành dân chủ, mấu chốt là ở vấn đề bầu cử và ứng cử.
“Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền
ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử… hễ là công dân Việt Nam
thì đều có hai quyền đó” . Nhìn vào luật bầu cử và ứng cử, quy trình thực hiện,
cách thức tiến hành và thái độ của dân chúng, người ta sẽ nhận ra chất lượng của
điểm xuất phát, cái cơ bản nhất của chế độ dân chủ ở mỗi nước.
- Tổ chức bộ máy nhà nước thực thi
luật pháp là công cụ đảm bảo thực hành dân chủ. Hồ Chí Minh đã khẳng định bộ
máy nhà nước phải gọn nhẹ, trong sạch, đủ năng lực và bản lĩnh để chấp hành
pháp luật. Con người trong bộ máy nhà nước phải được lựa chọn theo những tiêu
chí cụ thể và công khai, phải có uy tín trong dân chúng, có năng lực và liêm,
chính. Những người được Quốc hội cử ra thành lập Chính phủ mới, theo Hồ Chí
Minh, phải tuyên thệ về tư cách của bản thân và tư cách từng thành viên Chính
phủ. Tại phiên họp ngày 31-10-1946, kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá I, sau khi được
Quốc hội nhất trí giao trách nhiệm thành lập Chính phủ mới, Hồ Chí Minh đã
tuyên bố như sau: “Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và
tập hợp nhân tài không đảng phái… Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm
khiết... Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc” .
- Phải có chính sách dùng người
đúng, tạo cơ hội như nhau cho bất cứ ai, không phân biệt dân tộc, tôn giáo,
sang hèn, giàu nghèo... hễ là công dân Việt Nam đều có thể thi tuyển vào cơ
quan nhà nước, được giao những nhiệm vụ tương xứng với tài năng và đức độ của họ.
Người được tuyển lựa làm cán bộ, công chức phải cam kết trung thành với nhà nước
và dân tộc Việt Nam, phải hoàn thành công vụ, không tham nhũng, lãng phí của
công, không xách nhiễu dân; được thăng tiến, đãi ngộ về vật chất xứng đáng
nhưng cũng sẽ bị trừng phạt, thậm chí truy tố trước toà án nếu có lỗi. Một xã hội
thật sự dân chủ và pháp quyền khi cơ quan nhà nước tận tụy phục vụ dân, làm việc
cho dân và làm tốt. Nhà nước ấy phải có đội ngũ công chức, viên chức là công bộc
của dân, vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, tự hào với nghề nghiệp và biết
xấu hổ khi không làm tròn chức nghiệp bị dư luận phê phán. Cán bộ, công chức,
viên chức, phải thường xuyên được giáo dục tư tưởng, tự phê bình và phê bình,
phải chịu sự giám sát của dân, đồng thời phải bị xử phạt nghiêm minh theo luật.
Tuyệt đối không có bất kỳ ai dù ở cương vị nào, người trong Đảng hay ngoài Đảng
được sống ngoài vòng pháp luật theo kiểu “xử nội bộ”, thiếu công minh, thiên vị,
có tội “nhưng không bị trừng phạt xứng đáng”.
- Có Hiến pháp và pháp luật đúng và
đủ, có cơ quan công quyền trong sạch, vững mạnh, có đội ngũ công chức, viên chức
mẫn cán, đồng thời phải có hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có
cơ quan tư pháp phải thực sự “Dĩ công vi thượng”, không bị áp lực từ bất cứ ai,
cơ quan nào. “Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các
cơ quan khác không được can thiệp” (Điều 69, Hiến pháp 1946). Hồ Chủ tịch đã từng
dạy tư pháp phải “Phụng công thủ pháp” là chìa khoá để bảo vệ những nguyên tắc
dân chủ của chế độ ta. Do đó tư pháp phải công minh, công tâm, khoan dung và đại
lượng, không được “lạm dụng hình phạt”.
- Giáo dục pháp luật và nâng cao
văn hoá dân chủ cho tất cả mọi người. Nâng cao dân trí và quan trí để “nước ta
là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói”[6] trở thành hiện thực
và tất cả các cơ quan nhà nước phải tôn trọng các quyền dân chủ ấy của công
dân. Dân có hiểu biết về pháp luật, biết hành xử theo pháp luật thì đó là cơ sở
để nhà nước thực thi đúng pháp luật. Hồ Chí Minh đã từng nói “quan tham vì dân
dại”. Thực hành dân chủ sẽ chống lại có hiệu quả chủ nghĩa cá nhân, “tệ quan
tham lại nhũng” và các tệ nạn khác.
Ngày nay, dưới ánh sáng của sự nghiệp
đổi mới, nhìn lại một thời đã qua và những gì là sự nỗ lực để đi tới, chúng ta
càng thấy những giá trị cao cả, đích thực trong Tư tưởng Hồ Chí Minh khi khẳng
định “thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn”.
THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ HỒ CHÍ
MINH
TS.PhạmVăn Bính
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
Tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, kế thừa và
phát triển sáng tạo tinh hoa văn hoá dân chủ của nhân loại. Có thể khái quát
nội dung tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh ở những điểm chính sau:
Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ
nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Đây là một định nghĩa dân chủ cô đọng,
súc tích, vừa khoa học, hiện đại, vừa kế thừa và phát triển những hiểu biết của
nhân loại về dân chủ: chủ thể là dân và nội dung chủ yếu là dân làm chủ khi
họ được là chủ. Chữ dân được Hồ Chí Minh khẳng định là đông đảo những người
lao động, bị áp bức, không có chức quyền, là toàn dân Việt Nam, trừ bọn phản
động, tay sai đế quốc thực dân. Làm chủ là tự chủ, biết phát huy năng lực sáng
tạo trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Tư tưởng dân chủ còn được Hồ Chí
Minh thể hiện trong một mệnh đề ngắn gọn, súc tích Không có gì quý hơn độc
lập, tự do. Trong đó hàm chứa nội dung dân tộc độc lập, dân quyền tự do,
dân sinh hạnh phúc, dân trí nâng cao. Hồ Chí Minh khao khát thực hiện dân chủ
XHCN, thực chất là thực hiện chân lý Không có gì quý hơn độc lập, tự do,
là giải phóng con người khỏi áp bức, nô dịch, là từng bước thực hiện đầy đủ
quyền độc lập, tự do về chính trị, kinh tế, văn hoá, tinh thần của con người
trong hiện thực.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra và xây
dựng những thiết chế dân chủ mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đó là
các thiết chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước của dân, do dân quản lý, các tổ chức xã
hội của dân làm chủ. Trong đó thiết chế Nhà nước kiểu mới là một điển hình để
thực hiện quyền là chủ và làm chủ của người dân. Đồng thời, hình thành lý luận nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân.
Hồ Chí Minh quan niệm chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng và bảo đảm
trên cơ sở một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể giữ vai trò chủ đạo và một nền kinh tế mở: công tư đều lợi, chủ thợ đều
lợi, công nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài.
Nhưng Người cũng nhấn mạnh rằng:
dân trí thấp sẽ đứng ngoài dân chủ, nói rộng hơn, một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu, một dân tộc yếu thì không thể thực hiện quyền độc lập, tự do. Hồ Chí
Minh lấy dân trí vừa là tiêu chuẩn đánh giá năng lực, trình độ làm chủ của dân,
vừa là tiêu chí đánh giá sức mạnh và trình độ văn minh của một dân tộc, một quốc
gia. Những nội dung về dân chủ trên đây chưa phải là tất cả, nhưng đó là những
dấu ấn Hồ Chí Minh để lại trong kho tàng lý luận dân chủ của chúng ta.
Xuất phát từ quan điểm, hướng
đổi mới, kiện toàn cơ chế thực hiện dân chủ trong toàn xã hội của Đảng cầm
quyền và ý chí, nguyện vọng của nhân dân, chúng tôi cho rằng, việc vận dụng tư
tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh thực hiện dân chủ XHCN ở nước ta
hiện nay phải chú ý những yêu cầu sau:
Một: Yêu cầu toàn Đảng, toàn
dân nhận thức toàn diện, đầy đủ, sâu sắc hơn bản chất dân chủ XHCN theo tư
tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện và hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đây là yêu cầu vừa tất yếu, cơ
bản vừa cấp thiết, trong thực hiện dân chủ XHCN hiện nay ở nước ta. Bởi vì,
chính các nhà kinh điển mác xít và Hồ Chí Minh đều khẳng định: không có lý luận
cách mạng thì không có cách mạng vận động... Chỉ có theo lý luận cách mạng tiên
phong, đảng cách mạng mới làm tròn trách nhiệm cách mạng tiên phong. Nghĩa là
lý luận phải đi trước thực tế một bước, hướng dẫn, vạch quỹ đạo cho thực tiễn
vận động.
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh
chứa đựng những giá trị sâu sắc trong những câu chữ, ngôn từ giản dị. Nếu chúng
ta không nghiên cứu nghiêm túc, tỉ mỉ khó có thể nắm hết được cái tinh tuý
trong cách nói phổ thông, dung dị; nắm được cái thực chất, hàm ý giữa các con
chữ trong các bài viết của Người. Đồng thời, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam có tính nguyên lý,
phương pháp luận cần phải nghiên cứu, vận dụng phù hợp với hoàn cảnh từng thời
kỳ. Nó có giá trị nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động của chúng ta trong
thực hiện dân chủ để khỏi chệch hướng XHCN. Song, thành tựu nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng dân chủ của Người, những năm vừa qua, mới chỉ là
bước đầu, cần tiếp tục nghiên cứu làm sâu sắc, hoàn thiện để vận dụng đúng
trong cuộc sống hiện nay.
Sau gần 60 năm xây dựng nền dân
chủ Việt Nam, nhất là hơn 15 năm xây dựng chế độ dân chủ trong đổi mới, định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã nhận thức rõ và đúng hơn bản chất dân chủ
XHCN theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất này được quy định bởi hai yếu tố cơ
bản: Quan hệ sản xuất (định hướng) xã hội chủ nghĩa và nhân dân (chủ yếu là
người lao động) có quyền và nghĩa vụ tham gia vào các công việc quản lý nhà
nước. Bản chất dân chủ trong xã hội ta thống nhất với bản chất giai cấp công
nhân do sự quy định của quan hệ sản xuất (định hướng) XHCN và của nền tảng xã
hội-giai cấp là khối liên minh công- nông-trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dân chủ XHCN theo tư tưởng Hồ
Chí Minh là sự biểu hiện tính nhân đạo sâu sắc của giai cấp công nhân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong lịch sử và đương đại. Tư tưởng đó của Người
đặt lợi ích quốc gia lên trên hết và dân chủ nhân quyền phải bảo đảm trong chủ
quyền quốc gia, không chấp nhận sự áp đặt nhận thức, nội dung dân chủ của quốc
gia này đối với quốc gia khác. Chúng ta thường xuyên phải đấu tranh chống lại
các âm mưu, thủ đoạn của các lực lượng thù địch lợi dụng chiêu bài “dân chủ”,
"nhân quyền" để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta, nhất là
các vấn đề dân tộc, tôn giáo. Cuộc đấu tranh giữ vững bản chất dân chủ XHCN ở
nước ta ngày càng phức tạp, quyết liệt hơn khi mà nền kinh tế nước ta trong quá
trình mở cửa hội nhập quốc tế và cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình đang
quyết liệt.
Diễn biến tình hình chính trị
thế giới ngày càng phức tạp, hội nhập kinh tế, giao lưu văn hoá và công nghệ
thông tin quốc tế phát triển mạnh mẽ đã và đang tác động đến nhận thức, quan
niệm về dân chủ XHCN ở một bộ phận dân cư. Yêu cầu đặt ra là phải cảnh giác,
đấu tranh để giữ vững bản chất dân chủ XHCN, chống lại mọi xâm nhập, ảnh hưởng
của khuynh hướng dân chủ tư sản tràn vào hòng phá hoại chủ quyền đất nước. Song
cũng cần học hỏi, tham khảo kinh nghiệm quản lý hợp lý, điều hành có hiệu quả
nền kinh tế của các nước phát triển để xây dựng nền tảng kinh tế -kỹ thuật của
chế độ dân chủ ở nước ta.
Hai: Yêu cầu Đảng phải tự
mình nêu gương về dân chủ và lãnh đạo chặt chẽ quá trình thực hiện, phát huy
dân chủ XHCN.
Dân chủ mang tính giai cấp, nền
dân chủ nào cũng phụ thuộc vào đường lối chính trị của giai cấp lãnh đạo, của
Đảng cầm quyền. Đảng ta là đảng cầm quyền. Đảng phải tự chỉnh đốn, đổi mới và
kiện toàn phương thức lãnh đạo quá trình thực hiện và phát huy dân chủ XHCN
trên cả hai phương diện có quan hệ nội tại: thực hành, phát huy dân chủ của hệ
thống chính trị XHCN và thực hiện, phát huy dân chủ XHCN của nhân dân. Đảng
phải thúc đẩy cải cách hành chính nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, đổi
mới, kiện toàn phương thức lãnh đạo dân chủ đối với Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân. Đồng thời đảng viên của Đảng phải thực sự là người gương mẫu, đi đầu
trong thực hiện dân chủ, phải là người gần gũi, tin cậy của nhân dân. Dân tin
và theo Đảng là thông qua đội ngũ đảng viên vì họ gần dân, sát dân nhất.
Ba: Yêu cầu đổi mới và kiện
toàn năng lực thực hành dân chủ XHCN trong các thiết chế của hệ thống chính trị
các cấp, đặc biệt cấp cơ sở.
Thực hành dân chủ XHCN ở cấp cơ
sở, quan hệ trực tiếp đến quyền là chủ và làm chủ của nhân dân, nhưng
lại là khâu yếu kém hiện nay ở nước ta. Có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng
là cơ chế hoạt động và quan hệ của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị các
cấp chưa thật rõ ràng, cụ thể, đặc biệt con người (công chức) trong hệ thống
chính trị các cấp còn yếu về năng lực thực hành dân chủ.
Vì thế yêu cầu đặt ra với cấp cơ
sở (xã, phường, thị trấn), phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ
chức trong hệ thống chính trị (Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội). Lựa chọn và bố trí đúng cán bộ
chủ chốt để họ phải là những người có tư tưởng, đạo đức XHCN, lối sống dân chủ nhưng
nhất thiết phải là người am hiểu luật pháp và có năng lực thực thi công vụ
trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
Đối với đội ngũ công chức cần
thực hiện nghiêm túc những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ.
Bốn: Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, tạo nền tảng kinh tế - kỹ thuật của chế độ dân chủ XHCN.
Chế độ dân chủ XHCN chỉ tồn tại
vững chắc trên một nền tảng kinh tế - kỹ thuật của CNXH. Những năm tới đây nước
ta vẫn trong thời kỳ quá độ lên CNXH, yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là tất yếu khách quan, hợp quy luật phát triển.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta những năm tới hướng vào xây dựng hệ thống kinh tế mở, kinh tế hàng hoá
hướng về xuất khẩu, trên cơ sở lưu thông thông suốt trên thị trường trong nước
và quốc tế. Sản xuất hướng về xuất khẩu thực chất là đặt sản phẩm trong nước
trong quan hệ so sánh với sản phẩm nước ngoài, nghĩa là phải có sức cạnh tranh.
Sức cạnh tranh thể hiện ở chất lượng, giá cả, sự đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu thị
hiếu của thị trường. Hướng về xuất khẩu sản phẩm cũng là nhằm hạn chế, thay thế
tối đa hàng nhập khẩu cùng loại. Đây cũng thể hiện sự tác động của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đến hình thành tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế nước ta.
Năm: Yêu cầu giải quyết tốt
quan hệ nâng cao năng lực làm chủ và đề cao địa vị là chủ của người dân, nhưng
phải gắn với luật pháp, với kỷ cương xã hội nhằm xây dựng nền pháp chế XHCN.
Dân là chủ và làm chủ là mục
tiêu và nguyên tắc tổ chức, vận hành của chế độ ta - Chế độ dân chủ XHCN. Nhưng
quyền và nghĩa vụ dân chủ của công dân được quy định trong hiến pháp, các luật
và văn bản dưới luật và được luật pháp bảo vệ. Dân thực thi đúng pháp luật là
biểu hiện năng lực thực hành dân chủ của họ, là thực hiện quyền dân chủ của
công dân. Trình độ dân chủ của xã hội không chỉ được đánh giá qua cơ chế, thiết
chế dân chủ mà còn bằng năng lực thực hành dân chủ của dân. Yêu cầu kiện toàn
hệ thống pháp luật và nâng cao ý thức dân chủ của dân là hai vấn đề phải tiến
hành song trùng hình thành nền pháp chế XHCN. Đồng thời phải tăng cường giáo
dục pháp luật để dân hiểu và thực thi đúng pháp luật.
TƯ TƯỞNG VÀ PHƯƠNG PHÁP HỒ CHÍ MINH
VỀ VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
Nguyễn Xuân Tê
PGS.TS Trường đại
học Luật TP.Hồ Chí Minh
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là một trong những nét đặc sắc của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Từ đặc điểm hình thành đất nước và dân tộc, Hồ Chí Minh đã
lựa chọn và đấu tranh để xây dựng kiểu nhà nước dân chủ, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ từ trung ương đến cơ sở ngày càng hoàn thiện hơn qua từng giai đoạn
lịch sử.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận
thức được vai trò của pháp luật trong điều hành và quản lý xã hội của nhà nước.
Pháp luật đúng đắn sẽ tạo nên sự ổn định của nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước
vận hành đúng quỹ đạo và người dân dễ thực hành quyền dân chủ của mình.
Ngay từ năm 1919, trong Yêu
sách của nhân dân An Nam gồm 8 điều Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị
Véc-xây, thì đã có 4 điều liên quan đến vấn đề pháp quyền, đặc biệt có những điều
như "thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật". Để dễ phổ
biến và tuyên truyền trong cộng đồng người Việt Nam, Người đã chuyển bản Yêu
sách thành “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó có câu:
Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.
Những điều nêu trong Yêu sách chứng minh Hồ Chí Minh đã rất sớm chú ý đến pháp
luật, đến công lý và quyền con người. Tư tưởng thần linh pháp quyền là một tư
tưởng đặc sắc của Người. Thần linh pháp quyền chỉ một điều rất thiêng liêng và
nó phải được thấm vào từng công việc. Từ trong nhà nước đến ngoài xã hội đều
phải thể hiện tinh thần pháp luật. Nó phải thấm vào hành vi của từng con người
và thể hiện ra ở sự ứng xử trong cuộc sống.
Với tầm hiểu biết sâu sắc về nhà
nước và pháp luật, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng nhà nước hợp pháp,
hợp hiến và đặt nền móng cho một nhà nước pháp quyền Việt Nam. Lịch sử đã chứng
minh một cách đậm nét tư tưởng lớn đó của Người. Trước Cách mạng Tháng 8 năm
1945, khi Nhật làm đảo chính Pháp ngày 09/3/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Thường vụ Trung ương Đảng đề ra chủ trương “thành lập chính quyền cách mạng” ở
các địa phương thuộc khu giải phóng. Đầu tháng 8/1945, dù tình thế rất khẩn
trương, việc liên lạc với các địa phương trong cả nước rất khó khăn, Hồ Chí
Minh vẫn kiên quyết triệu tập Đại hội Quốc dân Tân Trào, cử ra "Ủy ban Dân
tộc Giải phóng Việt Nam". Lần đầu tiên một tổ chức có tính chất tiền Chính
phủ được đại biểu của nhân dân bầu ra đảm bảo tính hợp pháp để lãnh đạo nhân
dân đấu tranh giành độc lập. Người vạch rõ "Ủy ban Dân tộc Giải phóng cũng
như Chính phủ lâm thời của ta lúc này hãy đoàn kết chung quanh nó, làm cho
chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành khắp nước".
Dưới sự chỉ đạo sáng suốt của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 8/1945 nhân dân ta chớp thời cơ, nhất tề
đứng lên giành chính quyền. Cách mạng tháng Tám thành công, Tổ quốc độc lập tự
do, Hồ Chí Minh nêu vấn đề phải có một bản Tuyên ngôn độc lập để tuyên
bố với quốc dân đồng bào và thế giới về sự khai sinh của một nước Việt Nam mới,
trước khi quân đồng minh vào tước khí giới của Nhật. Bản Tuyên ngôn độc lập do
Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 02/9/1945 tuyên bố
sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một văn kiện chính trị mang
tính pháp lý đặc biệt, khẳng định nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời là hợp
pháp, hợp lẽ phải. Bản Tuyên ngôn độc lập đã chứng minh sự sáng suốt,
nhạy bén về pháp lý và tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh: một nhà nước dân
chủ hợp pháp phải là một nhà nước thật sự đại diện cho nhân dân, do dân cử ra
và quản lý xã hội bằng pháp luật, thể hiện ý chí thật sự của nhân dân. Xuất
phát từ tư tưởng đó, chỉ một ngày sau khi tuyên bố Tuyên ngôn độc lập, ngay tại
phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945, Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm
vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ thứ 3 là “phải có một Hiến pháp dân chủ”; và
dù tình hình đất nước đang đứng trước muôn vàn khó khăn, Người vẫn đề nghị tổ
chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Cuộc
tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 đã diễn ra thành công với trên 90% cử tri đi bỏ
phiếu, dù đế quốc Pháp và các thế lực phản động ra sức phá hoại, dù ở một số
nơi cuộc bầu cử diễn ra trong tiếng súng, sự uy hiếp của kẻ thù và hàng trăm
cán bộ, nhân dân đã hy sinh khi làm nhiệm vụ bầu cử.
Tư tưởng lập hiến là một trong
những nét luôn luôn nhất quán trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền của Hồ
Chí Minh. Ngày 20/9/1945, Chủ tịch lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ký
Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí
Minh làm Trưởng ban. Bản dự thảo Hiến pháp hoàn thành khẩn trương và nghiêm túc
dưới sự chỉ dạo trực tiếp của Hồ Chủ tịch. Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa I
vào tháng 10/1946, Quốc hội đã thảo luận dân chủ và thông qua bản dự thảo Hiến
pháp này. Đó là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam: Hiến pháp năm 1946.
Trong phiên họp Quốc hội thông qua Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
biểu, “...Hiến pháp đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc
Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp". Và nhấn
mạnh rằng: "Chính phủ cố gắng làm theo đúng 3 chính sách: dân sinh, dân
quyền và dân tộc" .
Ở đây, chúng ta thấy tinh thần
đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam thể hiện rõ nét phương pháp Hồ Chí
Minh. Đó là luôn luôn tìm một mẫu số chung cho toàn dân tộc, tránh khoét sâu sự
khác biệt, đặt tiến trình phát triển đi lên của dân tộc theo hướng quy tụ mọi
lực lượng, thay vì cho loại trừ. Phương pháp Hồ Chí Minh luôn luôn nhằm mục
đích: thêm bạn bớt thù, đoàn kết tất cả các lực lượng có thể đoàn kết, tranh
thủ bất cứ lực lượng nào có thể tranh thủ. Những lực lượng không tranh thủ được
thì cố gắng trung lập, làm cho càng ít kẻ thù, càng nhiều bạn đồng minh càng
tốt. Đó cũng chính là thể hiện quan điểm "dĩ bất biến, ứng vạn biến",
nghĩa là lấy một cái không thay đổi - quyền lợi của dân tộc, của đất nước- là
bất biến, để ứng phó với cái vạn biến của tình hình, của thế cuộc. Khi miền Bắc
hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Hồ Chí Minh, luật pháp được ban hành theo đà tiến triển của đất nước về
chính trị, xã hội, kinh tế. “Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ các đạo
luật” càng chứng minh nhà nước ta là nhà nước theo xu hướng pháp quyền. Khi xây
dựng các đạo luật, Hồ Chí Minh đều lấy điểm xuất phát từ ý nguyện và lợi ích
của nhân dân. Người vẫn coi luật là ý chí chung của toàn dân, luật phải do nhân
dân đóng góp ý kiến làm ra, mới đúng với cái ý nghĩa là “luật”. Và đây cũng
chính là thể hiện từng bước việc xây dựng một xã hội công dân. Giữa nhà nước
pháp quyền và xã hội công dân có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Đồng
thời với việc xây dựng nhà nước pháp quyền, chúng ta cũng từng bước xây dựng
một xã hội công dân, mà trong đó mọi người đều được tự do, bình đẳng, bác ái,
phát huy đầy đủ năng lực nội sinh. Thực chất của nhà nước pháp quyền và xã hội
công dân là việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa nhà nước và
công dân. Trong nhà nước pháp quyền, người công dân phải hiểu rõ mình có những
quyền gì: quyền công dân, quyền sở hữu, quyền được bảo vệ...Chính việc ý thức
được các quyền này mà người dân phải có bổn phận và trách nhiệm đối với quốc
gia. Mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền và xã hội công dân được Hồ Chí Minh
diễn đạt thật mới mẻ: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính
ta”. Một nhà nước như vậy chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Quan liêu, hách
dịch, khinh dân là ngược với bản chất nhà nước đó. Vì thế, trong Hiến pháp năm
1992 (bổ sung), Điều 2 ghi rõ: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền
của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong hoạt động của Chính phủ và của bản
thân Người. Người nghiêm khắc đòi hỏi bản thân mình và mọi tổ chức đảng, chính
quyền, đoàn thể phải tuân thủ pháp luật, không một ai đứng ngoài, đứng trên
pháp luật. Người nói: “Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo
vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi của nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có
tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng
tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm
đến tự do của người khác là phạm pháp”.
Hồ Chí Minh đã sống một cuộc đời
đầy gian nan, phải đối phó với nhiều kẻ thù, vượt qua nhiều trở ngại, bước đi
lúc tiến, lúc lùi, sách lược lúc mềm, lúc rắn, nhưng luôn luôn thanh thản trong
tâm hồn, ung dung tĩnh tại trong phong độ. Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt,
Hồ Chí Minh luôn luôn đánh giá đúng đắn xu hướng phát triển của tình hình, từ
đó đề ra những quyết định rất sáng suốt, khôn khéo, tạo nên những bước ngoặt
cho cách mạng. Việc nghiên cứu tư tưởng
và phương pháp của Người trên mọi lĩnh vực, mà đặc biệt là ở lĩnh vực xây dựng
nhà nước và pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở
Việt Nam.
TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG
Trần Đình Hải Châu
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ,
người chiến sĩ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho độc
lập, tự do và công lý của nhân dân ta và nhân loại yêu chuộng hoà bình trên
toàn thế giới. Rời Tổ quốc từ năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành đã trải qua những năm dài hoạt động cách mạng đầy sôi nổi và gian khó,
tìm thấy chân lý và đường đi để đưa dân tộc Việt Nam sánh vai cùng bạn bè quốc
tế. Lịch sử đã chứng minh rằng, người cộng sản Hồ Chí Minh đã từng bước vận dụng
sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn của nước ta, để
giải quyết những đòi hỏi cấp bách của thời cuộc. Không chỉ sáng lập một chính đảng
mácxít lêninnít kiểu mới cho giai cấp vô sản Việt Nam, Người còn thành công
trong việc xây dựng và thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng, để Đảng ta thực sự
vững mạnh, thực sự là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Không
ngoài mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội,
ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức sâu sắc rằng: Để có
thể đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi tới thắng lợi hoàn toàn, thì nhất
định Đảng phải được “tổ chức một cách dân chủ. Điều đó có nghĩa là tất cả mọi
công việc của Đảng đều được toàn thể các đảng viên, hoàn toàn bình quyền và
không có ngoại lệ nào, tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu; đồng thời
tất cả những người có trách nhiệm trong Đảng, tất cả các ban lãnh đạo của Đảng,
tất cả các cơ quan của Đảng đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và
có thể bị bãi miễn”.
Không
phải ngẫu nhiên, ngay từ những năm hoạt động thực tiễn và lý luận ở Quảng Châu
nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của một chính đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, và
trong suốt quá trình sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh lại luôn quan tâm
đặc biệt đến vấn đề thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng trên cả hai nội dung:
a, Bình đẳng là tiền đề của dân chủ
trong Đảng
b, Dân chủ nhất trong nội bộ Đảng
chính là cách làm việc, cách lãnh đạo, cách thức tự phê bình và phê bình của
cán bộ đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định:
Ở trong Đảng, mọi đảng viên đều phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc tập trung
trên nền tảng dân chủ và dân chủ nhưng phải dưới sự chỉ đạo tập trung, và vì thế
nhất định không được tự do hành động, dân chủ quá trớn. Trong bài: Phải làm
theo kỷ luật của Đảng, tháng 8/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Chủ
trương của Đảng ta là: trong nội bộ thì mở rộng dân chủ, tự phê bình và phê
bình. Nguyên tắc tổ chức thì cực kỳ nghiêm, tức là bất kỳ ở hoàn cảnh nào, mọi
đảng viên và cán bộ cũng phải thật thà và triệt để chấp hành chính sách và nghị
quyết của Đảng”. Đó chính là thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng một
cách nghiêm túc nhất.
Thấu hiểu hoàn cảnh cụ thể của đất
nước mình, muốn cho Đảng mạnh, hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rằng, mặc dù là tổ
chức của những người con ưu tú nhất, song Đảng cũng ở trong xã hội. Xuất thân từ
nhiều thành phần khác nhau, mỗi cán bộ, đảng viên bên cạnh bầu nhiệt huyết cách
mạng, sẵn sàng hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, vẫn còn đâu đó những tàn
dư của tư tưởng phong kiến trong mình. Là người lãnh đạo, nhưng Đảng Cộng sản
Việt Nam không phải là một tổ chức để làm quan, phát tài. Dù đang làm nhiệm vụ
gì, ở đâu và đảm nhiệm bất cứ cương vị công tác nào, mỗi đảng viên trong Đảng đều
phải là đầy tớ của nhân dân, có quyền bình đẳng trước tổ chức, điều lệ, mục
đích, lý tưởng và nhiệm vụ cao cả của Đảng. Điều đó có nghĩa là, người đảng
viên không phấn đấu để giành những đặc quyền, đặc lợi do vị trí đảm nhiệm mang
lại, mà phải phấn đấu để “giành lấy những quyền ngang nhau và những nghĩa vụ
ngang nhau” trước Đảng, trước Tổ quốc và Nhân dân.
Không phân biệt cấp bậc, không màng
tới ngôi thứ, địa vị, mỗi khi nói về nhiệm vụ của người đảng viên, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đều khẳng định: Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống đều
phải hiểu rằng: mình vào Đảng để làm đầy tớ cho dân, là công bộc của dân. Trước
Đảng và Nhân dân, ai nấy đều bình đẳng, có khác chăng là: Đảng viên mà là cán bộ,
lại là những cán bộ cấp càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Bởi trong tay những
cán bộ cấp cao đó, phương tiện, công cụ, quyền lực rộng hơn, dễ đem lại những lợi
ích thiết thực hơn, song ngược lại, những hậu quả xấu, những tác động của những
công việc họ làm cũng vì vậy mà lớn hơn rất nhiều. Vì thế, Người nhấn mạnh,
bình đẳng và dân chủ không đồng nghĩa với cào bằng, với bình quân chủ nghĩa, và
Hồ Chí Minh đã từng viết trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (10/1947)
về trách nhiệm của người đảng viên như sau: “Nhất là những người cán bộ và
lãnh tụ, càng phải làm cho xứng đáng lòng tin cậy của Đảng, của dân tộc”.
Xác định rõ rằng, dân chủ trong nội
bộ Đảng chính là tạo mọi điều kiện để tất cả các đảng viên có thể tham gia đóng
góp ý kiến cho Đảng, Người yêu cầu: “Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả
đảng viên bày tỏ hết ý kến của mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp
đỡ Trung ương”, nhằm tránh bệnh chuyên quyền, độc đoán, dẫn đến những hậu
quả khôn lường. Từ những đúc kết trong thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
Cán bộ, đảng viên vẫn ít sáng kiến, ít hăng hái, bởi trước hết và căn bản “là
vì cách lãnh đạo của ta không được dân chủ” thực sự, dân chủ triệt để.
2. Chăm lo đến vấn đề thực hiện dân
chủ trong Đảng, đặc biệt hơn khi Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn lưu tâm đến cách thức làm việc, đến tác phong và lề lối làm việc
của người cán bộ, đảng viên. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc thực hiện dân
chủ trong nội bộ Đảng chính là biết lắng nghe những người cộng sự, dù người đó
không thuộc cánh hẩu với mình, lắng nghe ý kiến đóng góp của quần chúng trước
khi quyết định một vấn đề. Trong nguyên tắc sinh hoạt Đảng, trước khi quyết
định bất cứ vấn đề nào, đảng viên phải hết sức thảo luận, phát biểu ý kiến và
khi đa số đã quyết nghị thì tất cả các đảng viên đều phải chấp hành, bởi thế, Hồ
Chí Minh từng nói: Không chỉ giữ chủ nghĩa cho vững, quyết đoán, dũng cảm mà
“phục tùng đoàn thể” cũng là một nguyên tắc để thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng.
Dân chủ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa nam và nữ, giữa người già và người trẻ
trong Đảng là dân chủ thực sự, dân chủ thành tâm, dân chủ để đoàn kết thống nhất
thành một khối, là “dân chủ thật thà trong Đảng”.
Dân chủ trong Đảng, theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, còn là dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và nâng cao tinh thần
phụ trách trước tổ chức, vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Dân chủ phải trở
thành một nguyên tắc, một nề nếp và thực hành dân chủ để làm cho mọi cán bộ đảng
viên “ai cũng được hưởng quyền dân chủ, tự do” thì Đảng mới có nguồn sức mạnh nội
lực để chống lại những thói hư, tật xấu, những tàn dư của chủ nghĩa cá nhân.
Tham ô, lãng phí, quan liêu - những căn bệnh xấu là kẻ thù của công cuộc xây dựng
một chế độ xã hội mới, đồng thời cũng là kẻ thù của người cán bộ đảng viên. Vì
vậy, chống lại những căn bệnh đó, chống lại thứ “kẹo bọc đường”, chính là góp
phần thực hiện dân chủ trong Đảng. Tuy nhiên, trong khi nêu cao và thực
hiện dân chủ trong nội bộ Đảng, Người không quên nhắc nhở rằng, dân chủ trong nội
bộ Đảng, nhưng dân chủ theo kiểu bị cắt xén, dân chủ nửa vời, không đầy đủ sẽ
nhanh chóng chuyển sang bè cánh, phe phái, và hơn thế nữa, đó là lý thuyết “dân
chủ” nhưng thực tế “quan chủ”.
Dân chủ trong nội bộ Đảng theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh còn là tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để mỗi đảng viên
làm chủ công việc mà mình được giao phó, làm cho họ tự ý thức và phát huy được
vai trò người làm chủ của mình, tránh được tình trạng “nội bộ Đảng âm u,
cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà
hoá ra oán ghét, chán nản” . Với Hồ Chí Minh, dân chủ trong Đảng đồng
nghĩa với “không khi nào được dùng mệnh lệnh” và phải chú ý để kiểm tra công
tác Đảng của các tổ chức cấp dưới.
Đề cập đến dân chủ trong nội bộ Đảng,
không chỉ yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên mạnh bạo đề ra ý kiến, Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn nhắc nhở mỗi người hãy luôn luôn thực hiện tự phê bình và phê bình như
“rửa mặt hàng ngày”. Theo Người, chỉ có một Đảng chân chính cách mạng thực sự
dân chủ mới dám mạnh dạn phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa.
Lề lối làm việc phải dân chủ, cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới và
ngược lại, cấp dưới cũng phải thường xuyên phê bình cấp trên, để nội bộ Đảng
luôn thống nhất. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi người cán bộ, khi được góp
ý kiến phê bình (dù có những điều chưa hẳn đúng), cũng chớ nên quở trách, giễu
cợt cán bộ đã phê bình mình. Thái độ cầu thị của cấp trên, sự thành tâm của cấp
dưới khi tiến hành phê bình công khai và phê bình một cách có văn hoá, sẽ giúp
mỗi người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau, đó mới thực sự là dân chủ trong nội
bộ Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Dân chủ thực chất là một biện pháp,
biện pháp có tính nguyên tắc để xây dựng Đảng ta thành một Đảng Cộng sản luôn
trong sạch vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Hơn 70 năm xây dựng và trưởng
thành, Đảng ta không khi nào rời xa nguyên tắc đó, bởi Đảng nhận thức sâu sắc rằng,
khi dân chủ trong nội bộ Đảng không được thực hiện và thực hiện không đầy đủ, sức
mạnh của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng sẽ không còn. Đẩy mạnh công cuộc xây
dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng thực sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy
tớ trung thành của nhân dân như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì phải thực
hiện dân chủ trong Đảng. Kỷ niệm 117 năm ngày sinh của Người và để thoả lòng
mong ước của Người, chúng ta càng khôn nguôi nhớ lời Người căn dặn: “ Làm
cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ”, mở rộng phê bình và tự phê bình,
“nhất là phê bình từ dưới lên”./
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ
TẬP TRUNG
DÂN CHỦ
Nguyễn Văn Hoà
Học viện Chính trị quân sự
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới vấn đề dân chủ và thực hành dân
chủ. Tư tưởng của Người về vấn đề này hết sức rộng lớn, sâu sắc và có ý nghĩa
thời sự nóng bỏng hiện nay.
Tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh là
tư tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa, mang bản chất của giai cấp công nhân thể
hiện sự vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo lý luận mác xít về dân chủ.
Đó là hệ tư tưởng dẫn dắt giai
cấp công nhân và quần chúng lao động đi tới cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc,
không còn chế độ người bóc lột người. Sự nghiệp ấy do Đảng lãnh đạo và quần
chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng biểu hiện sức mạnh của mình trong hoạt
động có tổ chức, tự giác và sáng tạo để từng bước xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Những luận điểm về dân chủ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đều rất cô đọng, hàm súc vừa cụ thể giản dị, vừa khái quát
sâu sắc. Trong những luận điểm đó, có những quan điểm mang tính định nghĩa khoa
học, sự đúc kết thực tiễn và sự gắn bó hữu cơ giữa lý luận với thực tiễn. Đây
không chỉ là sự sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là nét độc đáo đặc sắc
trong phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, giá trị
và ý nghĩa thực sự của dân chủ chỉ có được khi nhân dân lao động thực hiện lợi
ích thiết thực và quyền lợi của họ với tư cách là quyền của người dân làm chủ
được tôn trọng, được đảm bảo trong thực tế. Lợi ích và quyền lợi ấy phải mang
nội dung toàn diện cả vật chất và tinh thần, cả kinh tế và chính trị văn hóa xã
hội. Nó không chỉ được thừa nhận và đảm bảo về mặt pháp lý (được khẳng định
trong hiến pháp, pháp luật), mà còn phải được thực hiện thông qua cơ chế chính
sách (thông qua hiệu lực và hiệu quả vận hành của các cơ chế dân chủ), trước
hết là hoạt động của bộ máy nhà nước. Chính vì thế, Người đặc biệt nhấn mạnh:
"Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền
hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Nhà nước phải thể
hiện ý chí quyền lực của dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi
ích cho dân, thoả mãn những nhu cầu hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong xã
hội. Đó là một nhà nước dân chủ và tiến bộ. Những lợi ích và nhu cầu đó lại
phải được thể hiện một cách công bằng chính đáng, bảo đảm sự kết hợp hài hòa
giữa phát triển các cá nhân với mục tiêu phát triển xã hội. Đồng thời, lại phải
chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc hàng ngày của dân tộc, của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân
tích so sánh làm nổi bật sự khác nhau về bản chất của dân chủ. Dân chủ đối lập với
quan liêu. Một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ phải thường xuyên chống mọi
biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu, phải ra sức phát huy mọi khả năng của quần
chúng trong cuộc đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, đảm bảo cho nhân dân có
quyền thực sự tham gia quản lý nhà nước. Người căn dặn cán bộ: “Việc gì lợi cho
dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân thì phải hết sức tránh”.
Người yêu cầu mọi cán bộ cơ quan quyền lực phải hết sức tôn trọng dân, có lỗi
thì dũng cảm tự nhận lỗi và quyết tâm sửa chữa. Người phê phán bệnh quan liêu
cửa quyền, hách dịch, coi thường dân chúng của cán bộ và chỉ rõ đó là “quan
chủ” đâu còn là dân chủ nữa. Đây là những lời dạy quý báu và luôn có tính thời
sự trong công tác quản lý nhà nước, trong tu dưỡng đạo đức nâng cao văn hóa dân
chủ của cán bộ ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng
định, xây dựng chế độ dân chủ không chỉ là xây dựng cơ sở kinh tế, chính trị,
pháp luật của chế độ đó mà còn là xây dựng đạo đức, môi trường văn hóa-đạo đức
trong sạch lành mạnh. Đó là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và xây dựng
đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân là một căn bệnh nguy hiểm,
một thứ “giặc nội xâm”, nó đẻ ra mọi thứ bệnh tật khác, làm thoái hóa tổ chức
và làm hư hỏng cán bộ, làm tổn hại đến lợi ích nhân dân và xã hội, làm suy giảm
nhiệt tình, lòng tin của dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
còn biểu hiện ở chỗ, Người rất chú trọng đến mối quan hệ giữa quyền lợi và
nghĩa vụ, giữa lợi ích và trách nhiệm bổn phận của công dân đối với nhà nước và
xã hội. Đây là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người với tổ
chức, giữa thành viên và tập thể; được quy định bởi lợi ích, được điều chỉnh
bởi pháp luật và dư luận xã hội, theo chuẩn mực đạo đức và văn hóa. Theo Người,
nhân dân có quyền làm chủ thì đồng thời cũng có nghĩa vụ làm chủ. Mỗi công dân
đều phải có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện pháp luật, tuân theo mệnh lệnh của
Chính phủ, làm tròn bổn phận của người dân đối với nhà nước và xã hội. Cũng như
vậy, dân chủ phải gắn liền với pháp luật, kỷ cương để đảm bảo cho mọi hoạt động
diễn ra một cách có tổ chức, cùng hướng tới mục đích chung vì sự tiến bộ và
phát triển, vì lợi ích chung của xã hội và lợi ích riêng của mỗi người.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ
như vậy mới tránh được những hành vi tự phát, tự do vô chính phủ, sự hỗn loạn,
sự lạm dụng dân chủ để phá hoại dân chủ của nhân dân. Xuất phát từ quan niệm
đó, Người đã dày công giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và quần chúng những
phẩm chất cần thiết mà mỗi người phải thấm nhuần, biến nó thành nhu cầu thói
quen, tập quán lành mạnh để thực hiện dân chủ, chống tập trung quan liêu, chống
tản mạn cục bộ, chống tuỳ tiện coi thường kỷ cương phép nước, tự do vô chính
phủ. Người còn nhắc nhở uốn nắn mọi sự ngộ nhận về dân chủ, mọi biểu hiện vừa
vi phạm dân chủ, vừa rơi vào dân chủ cực đoan hoặc dân chủ hình thức; quan tâm
sâu sắc tới cơ chế biện pháp và các điều kiện bảo đảm dân chủ như áp dụng
nghiêm túc chế độ tiếp dân, chế độ báo cáo, chế độ kiểm tra, phê bình và tự phê
bình. Đồng thời, lại phải thực hiện các biện pháp như thông tin kịp thời, khách
quan, trung thực, kết hợp giáo dục tuyên truyền, thuyết phục với các biện pháp
hành chính, cưỡng chế, thưởng phạt nghiêm minh và sự bình đẳng của mọi người
trước pháp luật.
Những tư tưởng đó cho thấy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã bàn tới mối quan hệ giữa dân chủ với tập trung và việc thực
hiện đúng đắn mối quan hệ biện chứng này phải trở thành một nguyên tắc trong
lãnh đạo và quản lý.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ và tập trung dân chủ vào nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo, chỉ
huy, đội ngũ cán bộ quân đội cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Trước hết, phải tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng và sự chỉ huy quản lý tập trung, thống nhất để thực hiện rộng
rãi quá trình dân chủ hóa mọi hoạt động của đội ngũ cán bộ. Dân chủ được đảm
bảo bởi tập trung và tập trung phải trên cơ sở dân chủ, vì mục đích dân chủ. Đó
là một chỉnh thể thống nhất hữu cơ không thể tách rời trong hoạt động chỉ huy,
lãnh đạo, quản lý đơn vị. Đặc biệt, trong hoàn cảnh chiến đấu, tập trung dân
chủ phải đề cao tính tổ chức, tính kỷ luật, hành động thống nhất nhưng lại phải
biết vận dụng sáng tạo trong những điều kiện tình huống cụ thể.
Thứ hai, dân chủ trong hệ thống
tổ chức quân đội đòi hỏi phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phân công phụ trách. Chủ tịch Hồ Chi Minh đã chỉ rõ, lãnh đạo không tập
thể thì đi đến cái tệ bao biện độc đoán, chủ quan, kết quả là hỏng việc. Phụ
trách không do cá nhân thì sẽ đi đến tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả
cũng hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phân công phụ trách phải luôn luôn
đi đôi với nhau. Từ đó, Người xác định: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân
phụ trách là tập trung”.
Tư tưởng đó của Người cho thấy,
tập trung dân chủ phải thực sự là sức mạnh của dân chủ, bản chất đích thực của
nó xa lạ với tập trung quan liêu, tự do vô tổ chức kỷ luật. Dân chủ không đối
lập với tập trung mà chỉ đối lập với quan liêu chuyên chế độc tài; cũng như
vậy, tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với phân tán cục bộ, tự
do vô chính phủ.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới và hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo, chỉ huy, nhằm tăng cường sức mạnh của bộ máy tổ chức,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của người chỉ huy.
Khắc phục những hiện tượng tiêu cực chuyên quyền, độc đoán, lộng quyền và lạm
dụng quyền bởi vì nó hoàn toàn trái với tập trung dân chủ, có thể dẫn tới thái
độ coi thường tập thể dẫn tới thói kiêu căng tự mãn chủ quan, cá nhân độc đoán.
Mặt khác, kiên quyết đấu tranh phê phán những cán bộ núp dưới danh nghĩa tập
thể để hoạt động bè phái chia rẽ, đùn đẩy trách nhiệm cho tập thể. Do vậy, Đảng
uỷ và chỉ huy các cấp trong quân đội phải tăng cường công tác giáo dục và kiểm
tra cán bộ, đề cao kỷ luật, xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm nguyên tắc
chế độ, điều lệnh, điều lệ của quân đội và pháp luật của Nhà nước.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG
CÁN BỘ
Đình Thanh
Theo
Người, ''cán bộ là gốc của công việc'', do đó Người yêu cầu ''phải biết rõ cán
bộ” và ''hiểu biết cán bộ'' để có kế hoạch bồi dưỡng, huấn luyện, sử dụng phù
hợp. Đánh giá đúng cán bộ tức là xác định chính xác ai tốt ai xấu, ai mạnh chỗ
nào, yếu chỗ nào, khả năng hoàn thành công việc đến đâu, quan hệ với quần chúng
ra sao để từ đó ''tìm thấy những nhân tài mới... những người hủ hoá cũng lòi
ra''.
Cán bộ là con người, vì vậy
người cán bộ luôn chịu sự tác động của hoàn cảnh lịch sử, xã hội nên khi đánh
giá cán bộ, Hồ Chí Minh luôn đặt cán bộ trong mối quan hệ toàn diện, nhiều
chiều, phát triển và không định kiến ''một người cán bộ khi trước có sai lầm,
không phải sẽ sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm nhưng chắc gì
sau này không bị sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không
phải luôn luôn giống nhau... lúc cách mạng lên cao thì hăng hái, lúc cách mạng
gặp khó khăn thì đâm ra hoang mang'' hoặc ''nhận xét cán bộ không nên chỉ xét
ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của
cán bộ''. Theo Người, phải lấy tiêu chuẩn để đánh giá ''cán bộ nào, phong trào
ấy''. Một người cán bộ tốt phải là người có đủ đức và tài, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Đức là đạo đức cách mạng, là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tài là
người có khả năng hành động, làm việc mang lại hiệu quả cao. Đức và tài phải
thống nhất với nhau trong đó ''Đức là gốc''.
Một điều quan trọng nữa là người
đánh giá cán bộ. Để đánh giá đúng, đòi hỏi người đánh giá phải công tâm, vô tư,
khách quan. Do đó, bản thân người đánh giá cũng phải ''tự sửa mình'' để
"nếu không biết sự phải trái của mình thì không thể nhận rõ cán bộ tốt hay
xấu''. Đặc biệt đánh giá cán bộ phải dựa vào dân, lấy ý kiến của dân, đem ra
tập thể bàn bạc và đi đến thống nhất.
Đánh giá đúng cán bộ để Đảng có
kế hoạch huấn luyện cán bộ vì ''cán bộ là tiền vốn của Đảng'', ''công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém'', “Đạo đức cách mạng không
phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát
triển và củng cố. Cũng như ngọc, càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”.
Sử dụng cán bộ thế nào? Theo Hồ
Chí Minh, trước hết phải xác định đúng yêu cầu của công việc, ''công việc yêu
cầu cán bộ'' và khi bố trí, sử dụng phải tránh sự thiên vị cá nhân. Dùng người
là cả một khoa học và nghệ thuật, do đó, nếu bố trí đúng sẽ phát huy mặt mạnh
của cán bộ, thúc đẩy được phong trào và còn hạn chế được mặt yếu, mặt dở của
họ. Người chỉ ra những khuyết điểm khi sử dụng cán bộ, người quản lý hay mắc
phải đó là ''ba ham''. ''Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ
là chắc chắn hơn người ngoài. Ham dùng những kẻ nịnh hót mình mà chán ghét
những người chính trực. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh
những người tính tình không hợp với mình''.
Người căn dặn 5 vấn đề mà người
cán bộ lãnh đạo phải thực hiện khi dùng người:
''Mình phải độ lượng, vị tha thì
mới có thể đối với cán bộ một cách chí công -vô tư, không có thành kiến, khiến
cán bộ không bị bỏ rơi''; ''Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi
những người mình không ưa”; ''Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ
những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ''; ''Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn
vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt''; ''Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các
đồng chí mới vui lòng gần gũi mình''.
Đồng thời, Hồ Chí Minh nhắc nhở
phải mạnh dạn cất nhắc cán bộ và thường xuyên luân chuyển cán bộ, chống bệnh
ích kỷ, địa phương, kéo bè, chia rẽ phái này phái kia ''phải kết thành một khối
không phân biệt, không kèn cựa và giúp đỡ nhau thì công việc mới chạy”. Trong
quá trình sử dụng cán bộ phải thường xuyên đánh giá để kịp thời uốn nắn, sửa
chữa khuyết điểm cho cán bộ và bố trí lại cán bộ khi cần thiết.
Thực tế, trong cuộc đời làm cách
mạng, Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta di sản quý báu đó là khoa học và nghệ
thuật về đánh giá và sử dụng cán bộ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
đội ngũ cán bộ có nội hàm hết sức phong phú nên cần được nghiên cứu ở nhiều
phương diện. Song, cần khẳng định: Đánh giá cán bộ, sử dụng cán bộ là cả một
vấn đề khoa học và nghệ thuật, và phải luôn ghi nhớ lời Bác dạy: “Công việc
thành hay bại đều từ cán bộ mà ra''.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MÔ HÌNH MỘT
BỘ MÁY CHÍNH PHỦ HIỆN ĐẠI
Diệp Văn Sơ
Trong
di sản của tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng tổ chức một nhà nước pháp quyền kiểu
mới, đặc biệt, tư tưởng tổ chức một chính phủ theo mô hình chính phủ hiện đại
là một di sản cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc để rút ra những bài học
bổ ích cho việc xây dựng một chính phủ phù hợp với xu thế cải cách hành chính.
Có lẽ trong quá trình bôn ba tìm
đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc, chiêm nghiệm nhiều mô hình
Chính phủ của các nước phương Tây. Người đã chắt lọc, tiếp thu mặt tích cực, hợp
lý của việc tổ chức các Chính phủ này để sau khi cách mạng thành công giành độc
lập, Người đứng ra thiết kế bộ máy Chính phủ hợp lý, một Chính phủ hiện đại.
Giai đoạn tiền khởi nghĩa
Khi thời cơ tổng khởi nghĩa
giành chính quyền đã chín muồi, Ủy ban khởi nghĩa được thành lập (l3-8-1945) và
hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội đại biểu quốc dân khai mạc ở
Tân Trào, có khoảng 60 đại biểu đại diện cho các đảng phái yêu nước, các đoàn
thể cứu quốc, các dân tộc, các tôn giáo...
Đại hội quốc dân Tân Trào mang
tầm vóc lịch sử như một Quốc hội của nước Việt Nam mới quyết định Tổng khởi
nghĩa, cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam để chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa
trong toàn quốc là “một tiến bộ rất to trong lịch sử tranh đấu giải phóng của
dân tộc ta ngót một thế kỷ nay”. Đây là một sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh,
của Đảng và Tổng bộ Việt Minh trong việc phát huy trí tuệ và lực lượng của dân
tộc trong sự nghiệp giành độc lập tự do.
Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt
Nam có tính chất như Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch với một phó chủ tịch và 13 ủy viên, một Chính phủ rất
gọn.
Cuộc Tổng khởi nghĩa đã diễn ra
nhanh chóng trong toàn quốc, tiêu biểu là Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn
(25-8). Chính quyền cách mạng đã được thành lập khắp trong toàn quốc. Trước
thắng lợi của cách mạng, Bảo Đại phải chính thức tuyên bố thoái vị để Chính phủ
dân chủ cộng hòa điều khiển quốc dân và được làm dân tự do của một nước độc
lập.
Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Ủy ban
dân tộc giải phóng đã về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Hồ Chủ tịch, Ủy ban dân
tộc tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 28-8-1945, Chính phủ ra
Tuyên cáo và công bố danh sách Chính phủ. Tuyên cáo nêu rõ: “Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất giữ
trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra
một Chính phủ Cộng hòa chính thức”.
Chính phủ lâm thời gồm 15 thành
viên, 13 bộ và 2 bộ trưởng không giữ bộ nào.
Ngày 2-9-1945, tại vườn hoa Ba
Đình hàng chục vạn đồng bào nội ngoại thành Hà Nội và các địa phương lân cận đã
về dự lễ Độc lập. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ lâm thời long trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc
dân đồng bào và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. Các quyền
dân tộc cơ bản của Việt Nam được khẳng định trong tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch
Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời công bố trước quốc dân đồng bào và thế
giới (2-9-1945) có ý nghĩa như một nền tảng pháp lý quan trọng của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Buổi lễ kết thúc bằng lời thề
Độc lập của hàng chục vạn quần chúng.
Giai đoạn hình thành nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Lịch sử Việt Nam đã bước sang
một trang mới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh dấu một bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử
tiến hóa của dân tộc, một kỷ nguyên lịch sử mới đã được mở ra - Kỷ nguyên độc
lập tự do!
Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển
cử bầu Quốc hội, sau đấy ngày 2-3-1946, Quốc hội đã họp kỳ họp thứ nhất. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo của Chính phủ lâm thời trước Quốc hội. Quốc hội
đã bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ và giao cho Chủ tịch thành lập Chính
phủ mới.
Hồ Chủ tịch đã đệ trình trước
Quốc hội cơ cấu và các thành viên của Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Gồm Chủ
tịch, phó Chủ tịch và 10 Bộ trưởng. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên. 10 bộ
gồm có: Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Kinh tế, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Bộ
Xã hội - Y tế - Cứu tế và Lao động, Bộ Giáo dục, Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông công
chính, Bộ Canh nông.
Xét về mặt hình thức, có thể
nhận thấy mô hình Chính phủ 13 và 10 Bộ rất gần với Chính phủ của các quốc gia
phát triển ngày nay mà trong tư tưởng chỉ đạo chúng ta đang hướng tới là giảm
Bộ, giảm Cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức Bộ liên ngành đa lĩnh vực. Trước kia,
trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, hễ có ngành sản xuất nào thì có bộ đó.
Thí dụ: Bộ Cơ khí luyện kim, Bộ Điện than, Bộ Mỏ địa chất, Bộ Công nghiệp nặng,
Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm... Khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc tách quản lý hành
chính nhà nước ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi phải tổ chức Bộ
liên ngành đa lĩnh vực. Thí dụ, ta đã nhập 3 Bộ Thủy lợi, Lâm nghiệp, Nông
nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Tổng cục Cao su Việt Nam thành Bộ Nông nghiệp-Phát
triển nông thôn. Nhập Bộ Điện than, cơ khí luyện kim, công nghiệp nặng, công
nghiệp nhẹ, Tổng cục hóa chất thành Bộ Công nghiệp. Hiện nay, các bộ này hoạt
động bình thường, có hiệu quả.
Trên thế giới ngày nay, chúng ta
thấy nhiều chính phủ của các nước phát triển tổ chức không quá 15 bộ.
Tư tưởng tổ chức bộ máy chính
quyền
Đối với chính quyền địa phương
do Chính phủ quản lý, ngay từ những ngày đầu mới giành được độc lập, dù bận
trăm công nghìn việc, lo chống “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”, Hồ Chủ
tịch nhanh chóng ban hành Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 về “Tổ chức chính
quyền nhân dân ở các địa phương” và ngay sau đó, ngày 21-12-1945 lại ban hành
tiếp Sắc lệnh số 77 về “Tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành
phố”. Rõ ràng là dù Chính phủ lâm thời còn rất non trẻ, nhưng dưới sự lãnh đạo
và điều hành trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã phân biệt rõ sự khác
nhau của việc tổ chức quản lý địa bàn nông thôn so với địa bàn đô thị. Ở địa
bàn nông thôn, do xác định cấp huyện là cấp trung gian giữa tỉnh và xã cho nên
không thiết kế Hội đồng nhân dân huyện, chỉ có Ủy ban hành chính huyện.
Trên địa bàn đô thị, Sắc lệnh số
77 ngày 21-12-1945 của Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo chỉ
thiết kế “ở mỗi thành phố đặt 3 thứ cơ quan: Hội đồng Nhân dân thành phố, Ủy
ban Hành chính thành phố và Ủy ban Hành chính khu phố” (Điều 3). Như vậy là ở
thành phố, theo Sắc lệnh 77, có 2 cấp và Hội đồng nhân dân chỉ có ở cấp thành
phố. Phải chăng đây là tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng chính quyền
nhân dân: lấy hiệu quả làm mục tiêu, gọn, nhẹ theo đúng khoa học về tổ chức và
đỡ tốn tiền của dân, có hiệu lực để phục vụ tốt cho dân. Mô hình tổ chức đô thị
2 cấp chính quyền theo Sắc lệnh 77 giống như tổ chức quản lý đô thị hiện nay
của các thành phố như Paris (Pháp), Tokyo (Nhật)…
Nghiên cứu Nghị quyết 3 Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII phần tiếp tục cải cách nền hành chính Nhà nước có yêu
cầu: “… Nghiên cứu phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động của Hội đồng nhân dân
và nhiệm vụ quản lý hành chính ở đô thị với hoạt động của Hội đồng nhân dân và
nhiệm vụ quản lý hành chính ở nông thôn…”.
Sở dĩ có sự phân biệt này là do
xuất phát từ những đặc điểm khác nhau khá rõ nét giữa địa bàn đô thị và nông
thôn. Điều đáng nói là cho đến nay chúng ta chưa có những kết luận dứt khoát về
sự phân biệt này.
Thực trạng quản lý đô thị ngày
nay còn những bất cập, lộn xộn có lẽ vì thiết kế bộ máy quản lý đô thị không
khác gì bộ máy quản lý nông thôn.
Nhận thấy con người trong bộ máy
chính quyền các cấp giữ vai trò quyết định hiệu quả hoạt động của chính quyền,
ngay từ những năm kháng chiến gian khổ ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chủ tịch đã ban
hành Sắc lệnh 76 ngày 20-5-1950 về Quy chế công chức Việt Nam. Quy chế công
chức ra đời đã bước đầu luật hóa hoạt động của công chức, không chỉ bằng kêu
gọi, giáo dục về chính trị tư tưởng mà đòi hỏi trong một nhà nước pháp quyền
mọi hoạt động của công chức phải trong khuôn khổ pháp luật. Công chức chỉ được
làm những gì mà pháp luật cho phép. Ngay việc tuyển chọn, bổ nhiệm công chức
vào ngạch, từ năm 1950 theo quy chế đã tổ chức hình thức thi tuyển. Một điều
đáng nói là sau gần 50 năm (1998) chúng ta mới ban hành Pháp lệnh Cán bộ công
chức và phục hồi việc thi để tuyển công chức. Thật là một sự chậm trễ cần phải
suy ngẫm và rút kinh nghiệm.
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
trong lĩnh vực xây dựng nhà nước pháp quyền, tổ chức hoạt động của Chính phủ
không nên nói những vấn đề lý luận chung chung mà phải nghiên cứu những việc
Bác đã làm, những mô hình Bác tự tay thiết kế, chúng ta mới mong rút ra những
bài học bổ ích trong việc xây dựng chính quyền hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Một chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân trên thực tế chứ không phải
chỉ trên khẩu hiệu và nằm trong khát vọng.
TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - SỰ THỐNG NHẤT GIỮA “ĐỨC TRỊ” VỚI “PHÁP TRỊ”
PGS.
TS Bùi Đình Phong
Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Ra đi tìm đường cứu nước năm 1911,
Hồ Chí Minh nuôi dưỡng khát vọng thành lập một nhà nước kiểu mới. Sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, trên cơ sở những nhận thức trước đây về một nhà nước “phải
có thần linh pháp quyền”, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến quyền lực của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thuộc về nhân dân, lợi ích phải vì dân. Đó
phải là một nhà nước dân chủ - dân là chủ và dân làm chủ. Đồng thời nhà nước đó
phải được vận hành và quản lý bằng pháp luật kết hợp chặt chẽ với việc giáo dục
đạo đức. Quan niệm về sự thống nhất giữa “đức trị” với “pháp trị” trong tư tưởng
Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ truyền thống văn hóa phương Đông và từ tấm
gương trị nước của các vị vua chúa hiền minh trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên,
vượt lên tất cả những ông vua đức độ và kẻ sĩ hiền tài, trong quá trình trị vì
đất nước, Hồ Chí Minh đã thực thi triệt để vấn đề “đức trị” với “pháp trị” trên
cơ sở cách mạng, khoa học và nhân nghĩa, nói đi đôi với làm vì hạnh phúc của
nhân dân.
Pháp luật và đạo đức là hai lĩnh vực
khác nhau thuộc hình thái ý thức xã hội. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, hai vấn đề
này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Pháp luật là một biện pháp để khẳng định
một chuẩn mực đạo đức; ngược lại đạo đức là những nguyên tắc, chuẩn mực, định
hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi
con người trong quan hệ với người khác, nhưng nhiều khi rất cần sự hỗ trợ của
pháp luật. Bởi vì nếu không kết hợp với tính nghiêm minh, khoa học của pháp luật
thì giáo dục đạo đức trở thành vô nghĩa. Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh cho
thấy rõ điều này. Chẳng hạn khi trả lời vụ Chu Bá Phượng, Người nói Chính phủ đã
cố gắng liêm khiết (tức là đạo đức). Nhưng nếu làm gương không xong, thì sẽ
dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Trước khi ký lệnh bác đơn chống án của
Trần Dụ Châu, với một trái tim bao dung, độ lượng, Hồ Chí Minh rất đau lòng,
suy nghĩ nhiều đêm. Nhưng rõ ràng, những vụ tham nhũng kiểu đó mà nếu chỉ kêu gọi,
giáo dục đạo đức không thôi thì không bao giờ giải quyết được vấn đề. Phải có một
bộ máy thể hiện tính khoa học và nghiêm minh của pháp luật. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là nặng về giáo dục, nhẹ về xử phạt, nhưng cái gì cũng không dùng đến xử
phạt thì không nên, sẽ mất cả kỷ luật. Trọn đời Hồ Chí Minh là một cuộc đời
giáo dục mọi người làm người, lấy đức làm gốc. Bởi vì, dù tài giỏi đến mấy mà
không có đức, không có căn bản thì không làm được cách mạng. Nhưng Người luôn
quán triệt “đức trị” phải thống nhất với “pháp trị”. Trong Di chúc, Người viết:
“Đối với nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu,v.v..
thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ
trở nên những người lao động lương thiện” .
Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc
lập khẳng định quyền con người và quyền của các dân tộc, tại phiên họp đầu tiên
của Chính phủ (3-9-1945), trong 6 nhiệm vụ cấp bách, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra
nhiệm vụ thứ ba là “chúng ta phải có ngay một hiến pháp dân chủ; phải tổ chức
càng sớm càng hay cuộc TổNG TUYểN Cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” để sớm có
một Nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra. Ngày 17-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký Sắc lệnh ấn định thể lệ Tổng tuyển cử. Ngày 20-9-1945, Người ký Sắc lệnh 34
thành lập ủy ban dự thảo hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để chuẩn
bị đệ trình Quốc hội. Chính phủ liên hiệp kháng chiến được Quốc hội họp phiên đầu
tiên ngày 2-3-1946 bầu ra là Chính phủ hợp hiến đầu tiên có đầy đủ tư cách và
hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại.
Hồ Chí Minh hiểu rõ rằng, từ một nền
văn hóa nông nghiệp, trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến chuyên chế
và hàng trăm năm dưới chế độ thực dân cũng không kém phần chuyên chế, chúng ta
không thể đi nhanh tới việc xác lập một nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên phải nhấn
mạnh tới vai trò của pháp luật trong quản lý điều hành đất nước và phải có những
hoạt động tích cực, kịp thời để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nói tới
pháp luật của chế độ mới dân chủ cộng hòa là phải gắn với dân chủ, hai nội dung
đó nương tựa vào nhau. Pháp luật là bệ đỡ của dân chủ và không thể có dân chủ
ngoài pháp luật. Theo Hồ Chí Minh, mọi quyền dân chủ phải được thể chế hóa bằng
pháp luật và pháp luật bảo đảm cho quyền tự do dân chủ được thực thi trong thực
tế.
Hồ Chí Minh là người có công lớn nhất
trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Nhưng điều quan trọng hơn là Người tập
trung chỉ đạo đưa pháp luật vào cuộc sống, làm cho pháp luật có hiệu lực trong
thực tế, tạo cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành. Đối với một nước dân
chủ, Hồ Chí Minh quan tâm tới năng lực làm chủ của người dân. Trước đây, dưới
chế độ cũ, bọn thực dân phong kiến tìm cách làm cho dân ngu để dễ trị. Trong chế
độ mới, Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục lại nhân dân, nâng cao dân trí, làm sao
cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám
nói, dám làm. Pháp luật chỉ có hiệu lực trong thực tế khi nhân dân có những hiểu
biết nhất định về văn hóa, chính trị, về pháp luật, về quyền công dân. Người
dân chỉ có thể “dám mở mồm ra” - như cách nói của Bác Hồ - khi có những hiểu biết
nhất định về pháp luật.
Giáo dục nhân dân hiểu biết về pháp
luật là cần thiết, vì điều đó tạo ra tính chủ động của người dân trong thực thi
pháp luật. Nhưng cán bộ - nhất là cán bộ ngành tư pháp - làm gương trong việc
tuân thủ pháp luật cũng rất cần thiết. Nói chung thì đạo làm gương cần thiết
trong mọi hoạt động. Bởi vì văn hoá phương Đông chứa đựng một triết lý “một tấm
gương sống còn có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Trong thư gửi
Hội nghị tư pháp toàn quốc tháng 2-1948, Hồ Chí Minh viết: “Các bạn là bậc trí
thức. Các bạn có cái trách nhiệm nặng nề và vẻ vang là làm gương cho dân trong
mọi việc… Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các
bạn phải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp”, chí công vô tư cho nhân dân
noi theo”. Hồ Chí Minh là tấm gương sáng, mẫu mực trong việc thực thi pháp luật.
Những câu chuyện về việc Người chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông, đèn đỏ dừng
lại, hay đơn giản là tôn trọng quy định của nhà chùa cởi dép khi vào lễ Phật,…
được nhân dân truyền tụng, học tập, có sức giáo dục to lớn cho cán bộ, nhân dân
trong việc thực thi pháp luật.
Tư tưởng “pháp trị” của Hồ Chí Minh
đặc biệt thể hiện nổi bật ở việc bảo đảm tính khoa học, hiệu lực và nghiêm minh
của pháp luật. Hơn hai tháng sau khi tuyên bố độc lập, ngày 23/11/1945, Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh 64-SL về việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và một Toà
án đặc biệt có nhiệm vụ giám sát và xét xử các sai phạm của các nhân viên từ
trong các uỷ ban nhân dân các cấp đến cơ quan cao nhất của chính quyền (các Bộ).
Bốn ngày sau khi ký Sắc lệnh thành
lập Ban Thanh tra đặc biệt và Toà án đặc biệt, Hồ Chí Minh lại ký tiếp Sắc lệnh
ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và
phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Cuối năm đó, khi giao cho đồng chí
Lê Giản phụ trách ngành Công an (Ty Liêm phóng), Người đã dặn rằng: Chú phụ
trách ngành này là phải “thiết diện vô tư”, tức là mặt sắt không thiên vị. Nếu
chú không “thiết diện vô tư” thì Bác sẽ “thiết diện vô tư” đối với chú. Như vậy,
chỉ trong vòng 3-4 tháng sau ngày tuyên bố nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh
đã tập trung cao độ cho việc xây dựng bộ máy, trong đó có khía cạnh pháp luật
chống tham nhũng, một trong những vấn đề lớn liên quan tới sự sống còn của chế
độ mới. Ngay cả khi nói về Đảng, gắn vấn đề pháp luật chống tham nhũng, Người
khẳng định “nếu cần có đảng phái thì sẽ là đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ
có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ
là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra
ngoài”. Trong trường hợp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ngang hàng kẻ tham ô
với kẻ phản quốc. Và hai tội danh này đều xếp vào khung hình phạt tử hình theo
Quốc lệnh 10 điều thưởng và 10 điều phạt ngày 26-1-1946 do Hồ Chí Minh ký.
Với tư cách là người đứng đầu Chính
phủ, Hồ Chí Minh trăn trở với vận nước, với “nền dân chủ mới chưa hoàn toàn”.
Năm tháng sau khi tranh được quyền độc lập, Hồ Chí Minh đã có bài “tự phê bình”
trên báo Cứu quốc số 153, ngày 28-1-1946. Sau khi khẳng định Chính phủ có làm
được một số việc, Hồ Chí Minh đau lòng thừa nhận rằng “tuy nhiều người trong
ban hành chính làm việc tốt và thanh liêm, song cái tệ tham ô, nhũng lạm chưa
quét sạch”. Đây là lần đầu tiên trong chế độ mới, Hồ Chí Minh dùng hai từ
“nhũng lạm” với nghĩa lạm dụng quyền lực để tham nhũng. Người lạm dụng quyền lực
thì trước hết phải có quyền lực. Vậy thì ai là những người có quyền lực? Theo Hồ
Chí Minh, đó chỉ có thể là những người làm việc trong các công sở, cán bộ các
cơ quan, các đoàn thể. Và quyền lực ở đây được đặt trong mối tương quan giữa
cán bộ công chức với nhân dân. Người dân không thể có quyền hành, quyền lực; chỉ
có cán bộ công chức mới có quyền hành, quyền lực. Người viết: “Những người
trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm,
Liêm, Chính, thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” (3). Sau này
Người lại viết: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì
quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư” .
Trong năm 1946, những chuyện về ăn
hối lộ, tham nhũng trong Chính phủ đã được Quốc hội nước ta lúc bấy giờ hết sức
quan tâm. Đặc biệt là sau vụ Chu Bá Phượng, Bộ trưởng Bộ kinh tế trong Chính phủ
liên hiệp kháng chiến, là đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng, thành viên trong
đoàn Chính phủ ta dự Hội nghị Fontainbleau, bị các nhà chức trách Pháp bắt được
vì mang vàng đi buôn. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I (11-1946), có đại biểu
Quốc hội đã chất vấn Chính phủ về vụ việc này. Thay mặt Chính phủ, Bác Hồ đã trả
lời thẳng thắn rằng, “Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng
trong chính phủ, từ Hồ chí Minh đến những người làm việc ở các uỷ ban làng,
đông lắm, phức tạp lắm. Dù sao, Chính phủ đã hết sức làm gương, và nếu làm
gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đang
trị và sẽ trị cho kỳ hết”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính nghiêm minh của pháp luật
thật rõ ràng, dứt khoát: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm,
bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.
Bước vào thập niên năm mươi, để tập
trung mọi khả năng cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới công tác chỉnh Đảng, chống tham ô, lãng
phí, quan liêu, nghiêm minh với tội hối lộ. Ngày 24-1-1952, khi viết về “Sự
nghiệp vĩ đại của Lênin”, Người đã nhắc tới tính nghiêm khắc của Lênin trong việc
xử bọn ăn hối lộ: “Đối với tệ tham ô hủ hoá, Lênin rất nghiêm khắc. Có một lần
Toà án Mạc Tư Khoa xử nhẹ một vụ ăn hối lộ, Lênin liền viết trong một bức thư:
“không xử bắn bọn ăn hối lộ mà xử nhẹ như thế, là một việc xấu hổ cho những người
cộng sản, những người cách mạng”. Trong kháng chiến chống Pháp (9-1950), Bác Hồ
- dù rất đau lòng - vẫn đã y án tử hình Trần Dụ Châu, Đại tá, Cục trưởng Cục
quân nhu, phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn, bớt xén phần cơm áo của bộ đội
để sống trác táng, trụy lạc. Người tâm sự với Trần Đăng Ninh trước khi ký bác
đơn chống án của Trần Dụ Châu: “Với loài sâu mọt đục khoét nhân dân, nếu phải
giết đi một con mà cứu được cả rừng cây, thì việc đó là cần thiết, hơn nữa là
nhân đạo” .
Để bảo đảm nhà nước pháp quyền có
hiệu lực mạnh, với tư tưởng ‘tìm người tài đức”, chiêu hiền đãi sĩ, cầu người
hiền tài, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức vừa “hồng” vừa “chuyên”. “Hồng” ở đây là nói tới phẩm chất đạo đức của người
cán bộ công chức, mà hàng đầu và xuyên suốt là ý thức và tinh thần tận tụy phục
vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Còn “chuyên’ là nói tới năng lực thực tế của công
chức Việt Nam nói chung và năng lực trong việc giữ một nhiệm vụ cụ thể trong bộ
máy nhà nước nói riêng với tinh thần “làm nghề gì cũng phải học” và “làm nghề
gì phải giỏi nghề đó”.
Hiện nay, trong kỷ nguyên toàn cầu
hóa, chúng ta phải có tư duy toàn cầu về một Quốc hội, một Chính phủ thời hội
nhập. Vấn đề rộng lớn, nhưng lõi cốt là tập trung xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Chính phủ phải thật sự
là công bộc của dân. Chúng ta coi việc giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa cơ bản, lâu
dài và cấp bách. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế mà pháp luật không nghiêm thì phải
trả giá đắt. Chúng ta đã có quá nhiều bài học về vấn đề này do sự kém hiểu biết
về pháp luật (Việt Nam và quốc tế), non kém trong trình độ quản lý, không
nghiêm và minh về pháp luật. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu và quán triệt
sâu sắc tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa “đức trị” với
“pháp trị” là hết sức cần thiết, vì nó tiếp tục soi sáng công cuộc đổi mới của
Đảng và dân tộc ta.
TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PGS.
TS. TRẦN QUANG NHIẾP
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng
lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Người trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng bộ
máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt Nam mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước dân chủ, trong đó pháp quyền được đề cao đã xuất hiện rất
sớm. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi viết “Việt Nam yêu cầu” Người
đã chỉ rõ, “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền gắn liền với thực hiện dân chủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, Nhà
nước Việt Nam phải là nhà nước dân chủ. Nền dân chủ là nền dân chủ của nhân
dân, đề cao vai trò của nhân dân, nhân dân là chủ thể, “mọi quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”. Để bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi chuyên chính là điều kiện để giữ vững quyền dân chủ. Người Việt Nam,
dân chủ là cái quý hóa nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để
đề phòng phá hoại… Thế thì dân chủ cũng cần có chính quyền để giữ gìn dân chủ.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà
nước pháp quyền hợp hiến, hợp pháp. Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của
Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra hai nhiệm vụ trực tiếp xây dựng
nhà nước pháp quyền là tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp để xác lập nền
tảng xây dựng nhà nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, pháp luật của ta là
pháp luật dân chủ, vì nó bảo vệ dân chủ tự do rộng rãi cho nhân dân. Nhà nước
vì thế phải thực sự của dân, chăm lo lợi ích cho nhân dân. Người cho rằng,
chúng ta có nhà nước có độc lập tự do mà dân cứ đói cứ rét thì cũng chẳng có
nghĩa gì.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là công cụ bảo vệ và phát triển quyền con người. Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi quyền con người không chỉ là quyền tự do cá nhân, mà còn là quyền bình
đẳng giữa những con người, bình đẳng giữa các dân tộc; là độc lập dân tộc và giải
phóng con người. Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa rất phong phú và nhất quán. Đó là những tư tưởng được Đảng ta vận dụng,
phát triển xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, với những đặc
trưng cơ bản sau:
- Nhà nước của dân, do dân, vì dân;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công rõ ràng và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Nhà nước được tổ chức và hoạt động
trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm Hiến pháp, pháp luật giữ vị trí tối
thượng trong quản lý, điều hành các hoạt động thuộc mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
- Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công
dân; thực hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám
sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần
chúng nhân dân.
Tiếp tục thực hiện dân chủ và hoàn
thiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta có nhiều việc phải làm, trước hết tập trung
những vấn đề chính sau:
Một là, nâng cao chất lượng và hiệu
quả kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể
chế, tổ chức và phương thức kiểm tra, giám sát. Kết hợp kiểm tra giám sát của Đảng
với kiểm tra giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân. Phát huy vai trò
giám sát của nhân dân, của các cơ quan thông tin đại chúng và của dư luận xã hội.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả
giám sát tối cao của Quốc hội đối với các hoạt động hành pháp và tư pháp. Cải
cách tổ chức và hoạt động thanh tra của Chính phủ, chú trọng các lĩnh vực tổ chức
cán bộ, tài chính, ngân sách, lao động, công vụ.
Bảo đảm các quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân. Xây dựng các quy trình, hướng dẫn để mọi công dân có điều kiện
phát hiện, đề xuất, kiến nghị, giúp cho công tác kiểm tra, giám sát có hiệu quả.
Hai là, thực hiện nguyên tắc tập
trung, dân chủ trong tổ chức vận hành bộ máy nhà nước.
Để giữ vững quyền lực trong tay
nhân dân, các tổ chức và hoạt động của Nhà nước luôn quán triệt nguyên tắc tập
trung dân chủ nhằm phát huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của tập thể và
từng cá nhân; sức mạnh của cả nước và từng địa phương, của từng tổ chức và cả hệ
thống bộ máy.
Tập trung dân chủ là thống nhất,
không đối lập với nhau. Tập trung để phát huy dân chủ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong xây dựng, tổ chức, điều hành của Nhà nước. Tập trung để thực hiện
và giữ vững quyền lực của nhân dân. Tập trung không phải là giảm quyền lực của
nhân dân mà trái lại để thực thi quyền lực của nhân dân; phát huy vai trò của
Nhà nước.
Ba là, nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Đổi mới, kiện toàn tổ chức và
phương thức hoạt động của Quốc hội, nâng cao chất lượng chính trị và hiệu quả
hoạt động của Quốc hội.
Cải cách và kiện toàn bộ máy hành
chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính dân chủ, từng bước hiện đại, đáp ứng
yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước. Đổi mới phương thức hoạt động của Chính phủ
theo hướng tăng cường quản lý vĩ mô bằng hệ thống pháp luật, chính sách, tôn trọng
quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng bộ máy chính quyền cấp cơ sở xã, phường,
thị trấn có đủ năng lực, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu công tác.
Bốn là, nâng cao chất lượng toàn diện
của đội ngũ cán bộ, công chức.
Cải cách và hoàn thiện chế độ công
vụ, quy chế cán bộ, công chức, viên chức, coi trọng cả năng lực và tinh thần phục
vụ nhân dân. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ
lãnh đạo, quản lý về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh, tiêu
chuẩn, thực hiện tinh giản biên chế. Quy định rõ chế độ, trách nhiệm của tập thể,
cá nhân, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong phạm vi công việc cụ thể.
Năm là, khắc phục bệnh quan liêu, đổi
mới cơ chế hoạt động của Nhà nước nhằm thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
Quan liêu đồng nghĩa với chủ nghĩa
địa vị, chủ nghĩa cá nhân, xa rời thực tế, chủ quan, biến mục đích của Nhà nước
thành mục đích của cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng quan liêu cùng với
tham ô, lãng phí là thứ “giặc nội xâm”. Nơi nào bệnh quan liêu càng nặng thì
nơi ấy càng nhiều lãng phí, tham ô. Bệnh quan liêu tiếp tay cho người yếu kém,
kẻ xấu đục khoét ngân khố, tài sản quốc gia. Quan liêu đi liền với mệnh lệnh, cửa
quyền, coi thường dân, làm khó cho mọi người.
Sáu là, đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí làm trong sạch bộ máy nhà nước.
Bản chất của tham nhũng, lãng phí
là những hành vi của những người có chức, có quyền lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để vụ lợi cá nhân. Nguyên nhân sâu xa của tham nhũng là sự suy thoái đạo đức, lối
sống của cán bộ, công chức; sự sơ hở, yếu kém trong quản lý; sự mất dân chủ,
thiếu công khai minh bạch trong các hoạt động của đời sống xã hội; sự chuyên
quyền độc đoán quan liêu của người quản lý.
Tham nhũng hiện nay ở nước ta đang
là nguy cơ lớn, làm ảnh hưởng đến sự trong sạch của bộ máy nhà nước, làm giảm
hiệu lực và năng lực quản lý của Nhà nước. Vì vậy, chỉ có ngăn chặn, đẩy lùi
tham nhũng mới thực sự xây dựng và hoàn thiện được nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa vững mạnh của dân, do dân, vì dân, thực hiện dân chủ với nhân dân.
Bảy là, tiếp tục hoàn thiện hình thức
dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân.
Thực hiện phương châm: dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra chủ yếu thông qua hai hình thức dân chủ đại diện
và dân chủ trực tiếp. Dân chủ đại diện cho đến nay vẫn được coi là phương thức
thực hiện dân chủ có những ưu điểm cơ bản, thể hiện tính hợp lý, khả năng thực
thi, bảo đảm được sự sáng suốt trong quyết định những vấn đề quan trọng của xã
hội. Dân chủ trực tiếp nhằm phát huy quyền làm chủ cụ thể thiết thực, trực tiếp
của người dân. Điều đó lại tùy thuộc vào nhận thức, trình độ, năng lực, điều kiện
của mọi người. Đồng thời, Nhà nước có cơ chế phù hợp để người dân thực hiện quyền
làm chủ trực tiếp của mình.
Những vấn đề nêu trên có thể chưa đầy
đủ, chỉ là những điểm cơ bản nhằm phát huy quyền làm chủ, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước luôn soi sáng cho chúng ta nguyên tắc rất cơ bản về mối quan
hệ biện chứng giữa thực hiện dân chủ với xây dựng nhà nước thực sự là của dân,
bao nhiêu quyền lực là ở nơi dân./.
TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
PGS,
TS, Nguyễn Hữu Khiển
Phó Giám đốc Học viện Hành chính
thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
Đường lối của Đảng và Nhà nước ta
trong xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân sau khi giành thắng lợi trong cuộc
Cách Mạng tháng Tám lịch sử có một số điểm mang tính định hướng quan trọng: Có
sự dẫn dắt về nhận thức, trực tiếp chỉ đạo và sự kiên trì cho mục đích, mục
tiêu của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về một Nhà nước Việt Nam dân chủ bình đẳng và
pháp quyền. Có sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Hồ Chủ Tịch, sự điều hành, tổ
chức thực hiện sáng tạo và hiệu quả của Nhà nước và sự đồng tâm hiệp lực to lớn
của toàn dân tộc. Sau đây xin được trình bày một số nhận thức liên quan đến tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam trở thành Nhà nước của dân do
dân và vì dân; một Nhà nước dân chủ pháp quyền. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ sở của
một nhà nước pháp quyền Việt Nam là: Xã hội Việt Nam phải được tổ chức và quản
lý bằng Hiến pháp và luật do nhân dân Việt Nam trực tiếp xây dựng.
Pháp quyền trong một thể chế không
chỉ dừng lại ở việc nhà nước đó có luật hay không mà là có pháp luật bắt nguồn
từ một đạo luật cao nhất, ''luật gốc'' là hiến pháp. Lịch sử đã chứng minh rằng,
không phải cứ có nhà nước, có pháp luật là có nhà nước pháp quyền. Phải chăng
như các nhà nước cổ đại, phong kiến đã được coi là những nhà nước pháp quyền, bởi
họ cũng có luật, thậm chí nhiều đạo luật còn rất văn minh nữa? Chưa thể gọi các
chế độ đó là có pháp quyền là vì ở đó pháp luật không phải được hình thành từ ý
chí của đa số nhân dân mà chỉ là ý chí cá nhân của các nhà chuyên chế. Đối lập
với nền chuyên chế, lịch sử đã định ra cho nền dân chủ phải có hệ thống pháp luật
xuất phát từ luật cơ bản, luật gốc là hiến pháp do nhân dân xây dựng nên.
Có phải ở Việt Nam ta, người hiểu về
nền dân chủ nhất, hiểu bản chất của các định chế trong một bản hiến pháp, của một
nền pháp chế là Chủ tịch Hồ Chí Minh? Theo tôi đúng là như thế bởi vì:
- Hồ Chủ Tịch chủ động đi tìm thực
chất dân chủ, cái mà người Pháp tuyên truyền ở nước ta như thế nào, và Người đã
nhìn thấy nhiều điều, trong đó có quan hệ hữu cơ giữa chế độ dân chủ và nền
pháp chế bắt đầu bằng một bản hiến pháp.
- Chỉ có sự thông minh đặc biệt,
thiên phú (kết hợp với lòng yêu nước) Hồ Chí Minh mới có thể thực hiện một cuộc
xuất dương để có các cuộc hành trình, tìm tòi sách vở tài liệu, trực tiếp gặp gỡ
giao tiếp xã hội, viết những bài báo bằng tiếng nước ngoài liên quan đến dân chủ
và pháp quyền. Những nền dân chủ với hai ngôn ngữ phổ biến nhất là tiếng Pháp
và tiếng Anh người đều thành thạo cả, đã cho phép những gì người nhận thức được
để cống hiến cho dân tộc là từ thực tiễn, từ ''bản gốc'' của những nền văn minh
pháp lý liên quan đến dân chủ.
-Từ thực tiễn của nước Pháp, nước Mỹ,
nước Anh, Người đã nhận thức rằng nhà nước dân chủ thì phải có hiến pháp do đa
số đân chúng của nước đó xây dựng nên, không cần phải nhờ, phải ''mua'' của ai
cả. (Người Pháp không thể khai hoá cho nhân dân Việt Nam bằng hiến pháp và chế
độ pháp lý của họ được).
Điều đó giải thích vì sao ngay sau
khi giành được chính quyền, cùng với việc lo cho dân khỏi đói (cho trước mắt),
khỏi dốt (cho tương lai), Hồ Chủ Tịch đã lập tức chỉ đạo sao cho nước ta phải
có ngay bản hiến pháp để mở đường pháp lý cho dân chủ. Theo Hồ Chủ Tịch không
có bản hiến pháp do dân phúc quyết thì dân ta chưa thể có cái bảo đảm cho tự do
dân chủ được.
Điều đó còn cho phép chúng ta suy
nghĩ: nhận thức về pháp quyền ở Hồ Chủ Tịch đã đạt tới bản chất nhất của khái
niệm đó. Trong bài diễn ca ''Việt Nam yêu cầu ca'' của mình, Hồ Chủ Tịch nói 8
điều cốt yếu, trong đó có điều bảy nói về pháp quyền, dân chủ. Người viết ''Bảy
xin hiến pháp ban hành; trăm điều phải có thần linh pháp quyền'' là: Hiến pháp
phải có ngay ở nước ta càng sớm càng tốt (hiến pháp của ta, do dân ta soạn thảo
và phúc quyết; mọi quan hệ trong xã hội đều phải dựa trên một nền tảng pháp lý
công bằng dân chủ để xem xét thì mới tốt được!
Trong nhà nước pháp quyền, người
dân có vị trí đặc biệt.
-Vị trí người chủ của chế độ:
Đánh đuổi đế quốc để xoá bỏ pháp luật
hà khắc của nó; đánh đổ địa chủ để đoạn tuyệt với trật tự phong kiến với một nền
pháp lý đè nén, nô dịch người lao động. Cần phải tổ chức một nhà nước dân chủ bảo
đảm cho người dân quyền làm chủ và làm chủ thực sự. (mọi chế độ dân chủ đều coi
dân làm chủ; nhưng chỉ có dân chủ xã hội chủ nghĩa người dân mới là chủ thực sự).
Vì vậy để có hiến pháp thực sự là của
dân, Người kêu gọi Chính phủ lâm thời sớm tổ chức tổng tuyển cử tự do bình đẳng;
ở đó người dân sẽ cầm lá phiếu tự quyết định sự lựa chọn bộ máy quản lý và phục
vụ xã hội. Hồ Chủ Tịch đã bác bỏ tư tưởng bảo hộ (mà những kẻ xâm lược thường
rêu rao) bằng việc dẫn những lời bất hủ của chính các nhà dân chủ Pháp và Mỹ
trong bản tuyên ngôn (do Người trực tiếp soạn thảo) rằng: tạo hoá sinh ra cho mọi
người đều có quyền bình đẳng, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Theo tôi đây là
sự kết hợp tài tình giữa văn hoá và chính trong nhận thức Hồ Chí Minh.
Muốn có tự do bình đẳng thật sự cho
nhân dân, phải có bộ máy nhà nước do nhân dân lựa chọn, phải có Hiến pháp do
nhân dân phúc quyết (bằng trực tiếp hoặc thông qua chế độ đại diện). Tự do
chính trị mở đường cho tự do kinh tế là như vậy.
-Vị trí của người chủ của nhân dân
được chế độ bảo vệ
Khi nói hoặc viết liên quan tới
công việc của cán bộ Đảng và nhà nước, Người nhiều lần nhắc nhở: cán bộ là công
bộc (là người tận tuỵ phục vụ nhân dân). Bản chất của chế độ dân chủ phải là
như vậy, vì nguồn gốc của quyền lực hay chức vụ của một cán bộ, công chức nhà
nước trong nền dân chủ là do nhân dân lựa chọn. Đây là khía cạnh quan trọng
trong tư tưởng về nhà nước pháp quyền mà Hồ Chủ Tịch đã đặt nền móng, đồng thờì
cũng chính là nguyên lý có tác dụng như sự “đối chứng” trong đời thường. Qua
đó, xem ai là người đã làm đúng bổn phận và ai đã vi phạm nguyên lý này. Từ vị
trí người chủ của nhân dân trong chính trị, bổn phận của nhà nước là tìm cách
(chủ trương chính sách, pháp luật) cho nhân dân được ngày càng hạnh phúc no ấm
và có trí tuệ trong đời sống thực tiễn…
- Nhân dân có vị trí của người giám
sát hoạt động của Nhà nước
Hồ Chủ Tịch đã giải thích những vấn
đề tưởng như đơn giản trong nhận thức nhưng lại xuất phát từ bản chất của chế độ.
Người nói: dân chủ có nghĩa là dân làm chủ (không phải cán bộ như người chủ
nhân dân là đầy tớ!). Quyền giám sát của người dân là hệ qủa tất yếu của chế độ
dân chủ . Nó xuất phát từ chỗ: một là chế độ dân chủ đặt người dân ở địa vị người
chủ và nhà nước là người phục vụ; hai là sự phục vụ của nhà nước thông qua những
con người cụ thể. Họ có thể làm tốt, chưa tốt hoặc rất không tốt. Mỗi giai đoạn
của cách mạng có những tác nhân, áp lực khác nhau tác động tới hoạt động của
các cơ quan công quyền, các quan chức và công chức nhà nước. Đằng sau quyền
giám sát của người dân là sự tuyên dương những người tận tụy, có tài và đức,
phê bình người có sai sót và thay thế những người yếu kém về năng lực và phẩm
chất…
Trong nhà nước pháp quyền, nhà nước
(công chức, cơ quan nhà nước) chỉ được làm những gì pháp luật cho phép.
Đây không phải chỉ là vấn đề của đạo
đức mà của nguyên tắc chính trị trong chế độ dân chủ, của khoa học chính trị vật
dụng trong khoa học quản lý xã hội. Trong khoa học chính trị, làm đúng quyền hạn,
trách nhiệm là chống sự lạm quyền (giữa cơ quan này với cơ quan khác), chống sự
lộng quyền ở một cá nhân, một chức vụ. Tâm lý chính trị cho thấy người có quyền
dễ có xu hướng lạm quyền, làm cho quyền hạn của mình ngày càng to ra. Khi Hồ Chủ
Tịch nói cán bộ là công bộc, cũng có ý nhắc nhở nguy cơ đó.
Trong khoa học quản lý, bộ máy bao
giờ cũng được phân công chức năng. Mỗi người làm một việc sẽ không chồng chéo,
sẽ ngày càng thành thạo. Mỗi người làm một khâu, một việc sẽ “khép kín” toàn bộ
hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đạo đức công vụ có vị trí quan trọng
trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam .Có thể nói trong tổ chức và xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hồ Chủ Tịch không tuyệt đối vai trò pháp trị; cũng
không thần thánh hoá đức trị. Người đã tuỳ thời, tuỳ lúc mà chỉnh trang pháp chế
hay uốn nắn đạo đức trong công vụ cho cán bộ nhà nước.
Nhưng khi xét người cán bộ ở vị trí
công bộc, Người lấy hai phẩm chất cơ bản là “hồng” và “chuyên” trong giáo huấn ứng
xử. Người coi cán bộ tốt là rất cần nhưng thiếu chuyên môn thì làm việc gì cũng
khó; cán bộ nếu có tài mà thiếu đức thì vô dụng. Thật vô cùng giá trị trong
giáo huấn của Người về cái đức là gốc, nếu chúng ta nhìn nhận những trường hợp
tha hoá của một số người được Đảng, Nhà nước giáo dục, nhân dân bỏ tiền ra nuôi
dưỡng, ăn học; nhưng do hạ thấp cái đức nên đã trở thành người xấu, có hại cho
sự nghiệp của Cách mạng.
TƯ TƯỞNG QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC THUỘC VỀ
NHÂN DÂN CỦA HỒ CHÍ MINH
Trần
Ngọc Liêu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước là
một tài sản quý giá trong di sản cách mạng của Người. Nó chứa đựng những giá
trị to lớn cả về phương diện lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam
nói chung, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói riêng.
Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt
Nam đầu tiên đã lĩnh hội những nội dung cốt lõi trong học thuyết cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong đó, có vấn đề nhà nước và quyền lực nhà nước; mặt
khác, là người am hiểu sâu sắc văn hóa chính trị phương Đông và Việt Nam, với
một trí tuệ phi thường, Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo
những tinh hoa tư tưởng của nhân loại trên cơ sở những yêu cầu của thực tiễn
cách mạng Việt Nam và từ đó xây dựng nên những tư tưởng của riêng mình với
những nét độc đáo hiếm thấy.
Tìm hiểu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về nhà nước cần xuất phát từ hạt nhân tư tưởng về quyền lực và chủ thể
quyền lực nhà nước, từ đó triển khai thành các tư tưởng về cơ chế tổ chức và
vận hành quyền lực nhà nước.
Ngay từ những năm 20 (thế kỷ XX), Hồ
Chí Minh đã phê phán một cách quyết liệt bản chất của bộ máy nhà nước thực dân.
Người vạch trần bản chất xấu xa của chế độ thực dân đế quốc bên trong cái vỏ
hào nhoáng khai hóa văn minh trước công luận; và qua đó, Người chuẩn bị cho
mình những cơ sở lý luận và thực tiễn để hình thành nên tư tưởng về một nhà
nước kiểu mới, thật sự dân chủ. Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Đường
Kách mệnh - giáo khoa thư chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Người
viết: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa
là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong
tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh
phúc"(1). Quan điểm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và
phục vụ cho lợi ích của nhân dân là cốt lõi và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước. Tất cả những nhận thức đó tiếp tục được phát triển không
ngừng trong tư tưởng của Người gắn liền với những chặng đường tiếp theo của
cách mạng Việt Nam.
Người thường dùng khái niệm "ủy
thác" để nói đến việc nhân dân trao một phần quyền lực của mình cho nhà
nước. Quyền lực của nhà nước từ Trung ương đến địa phương, từ Chủ tịch nước đến
cán bộ xã đều do nhân dân "ủy thác" cho. Khi hết một nhiệm kỳ, Chính
phủ sẽ phải trao lại quyền cho nhân dân và nhân dân sẽ trao quyền ấy cho một
Chính phủ ở nhiệm kỳ mới do dân "tuyển cử". Các khái niệm "ủy
thác", "giao quyền" là những khái niệm chính trị học và ở Hồ Chí
Minh, các khái niệm ấy gắn chặt với nhân dân, là sự khẳng định quyền lực thuộc
về nhân dân.
Người còn thường xuyên gắn cụm từ
nhân dân với các khái niệm Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, v.v.. Ví dụ, trong
giai đoạn 1945 - 1946, các cụm từ "Nhà nước nhân dân", "Chính
phủ nhân dân" có tần số xuất hiện rất cao trong các bài viết, bài nói của
Người. Những cụm từ này được Người sử dụng với đối tượng là các cán bộ nhà nước
các cấp và đặc biệt là với nhân dân. Sự khẳng định đó nhắc nhở các cán bộ nhà
nước phải luôn ghi nhớ quyền hạn và trách nhiệm của mình cũng như giáo dục cho
nhân dân về một địa vị hoàn toàn mới của họ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước, tư tưởng về dân chủ - với ý nghĩa là bản chất của quyền lực nhà
nước và phương thức tổ chức, triển khai quyền lực nhà nước là một nét đặc sắc.
Theo Người, dân chủ hiểu một cách chung nhất là quyền lực chính trị thuộc về
nhân dân. Ở nước ta, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ;
và, "Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu
thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ".
Địa vị làm chủ của người dân, tức là
quan hệ của người dân với quyền lực nhà nước, được Hồ Chí Minh làm rõ trong
quan hệ với đội ngũ cán bộ nhà nước - những người trực tiếp thi hành quyền lực
nhà nước. Người viết: Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân
là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước
đều là phân công làm đày tớ cho dân. Người căn dặn cán bộ nhà nước: Phải nhớ
rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết.
Khi nói tới tư cách công bộc của cán bộ nhà nước đối với nhân dân, Hồ Chí Minh
khẳng định, mục đích hoạt động của họ là vì lợi ích chung. Người nói: Những
người trúng cử (vào bộ máy nhà nước), sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của
Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào. Phải luôn luôn nhớ và thực hành
câu: Vì lợi nước, quên lợi nhà; vì lợi chung, quên lợi riêng. Người khẳng định:
Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi
chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên bầu. Nếu dân là
chủ thì nhà nước, cán bộ nhà nước là công bộc của dân. Đây là một sáng tạo độc
đáo của Hồ Chí Minh. Chính tư tưởng này đã chỉ rõ sự đối lập về chất của Nhà
nước nhân dân với nhà nước phong kiến, nhà nước thực dân. Người căn dặn các cán
bộ nhà nước phải luôn ghi nhớ rằng các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến
các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ
không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của thực dân
Pháp, phát xít Nhật. Ở đây, ta thấy Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội hàm của khái niệm
"công bộc của dân", và có thể hiểu đây là một định nghĩa của Hồ Chí
Minh về chức năng của Nhà nước mà ý nghĩa sâu sắc của nó vẫn còn giữ nguyên
tính thời sự và cần được quán triệt trong công cuộc xây dựng Nhà nước ta hiện
nay.
Hồ Chí Minh đòi hỏi rất cao đối với
cán bộ nhà nước. Họ cần phải có rất nhiều phẩm chất, song tựu trung họ phải
thực sự vì dân mà làm việc. Người nêu rõ bốn đức tính là: cần, kiệm, liêm,
chính; phải ghi sâu những chữ công bình chính trực vào lòng; phải có một
tinh thần chí công vô tư; nếu muốn danh, lợi thì danh làm sao cho dân
tộc mình có danh với thế giới, và lợi làm thế nào cho tranh được lợi với
thế giới - đó là danh chính và lợi chính...
Cán bộ nhà nước phải làm sao để nhân
dân yêu quý, khi sắp tới dân mong, khi đi dân nhớ. Muốn thế trước hết cán bộ
phải yêu quý nhân dân, phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, phải kính
trọng nhân dân, tôn trọng nhân cách của họ. Người chỉ rõ: Muốn được dân yêu,
muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho
dân phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết các vấn đề, đặc biệt là những vấn
đề quan hệ đến đời sống nhân dân, dầu khó khăn đến đâu cũng mặc lòng. Nói tóm
lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân
phải được đặc biệt chú ý.
Khái niệm dân chủ còn được Hồ Chí
Minh làm rõ trong quan hệ của nó với khái niệm chuyên chính. Người viết: "Dân
chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để
đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có khóa, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp
hết. Cho nên có cửa phải có khóa, có nhà phải có cửa. Thế thì dân chủ cũng cần
phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ"(3); và, "Nhà
nước ta cũng là nhà nước của đại đa số nhân dân, để thống trị thiểu số phản
động, để giữ gìn lợi ích của nhân dân, bằng cách dân chủ chuyên chính
của nhân dân".
Tư tưởng về dân chủ của Hồ Chí Minh
được xây dựng trên cơ sở nhận thức về sức mạnh vô địch của nhân dân. Người
viết: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Và, Người đã đưa ra một quan điểm toàn
diện về dân chủ: NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ: Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của
dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn
thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân
với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước được hiểu là toàn thể nhân dân chỉ
trừ bọn phản quốc hại dân. Người viết: Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có
đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia. Xuất phát từ yêu thương quý trọng nhân
dân, Người thấy rõ nguồn sức mạnh vô tận của khối đại đoàn kết dân tộc, mọi mưu
đồ đề cao lợi ích vị kỷ của một bộ phận người đi ra ngoài con đường của cả dân
tộc hoặc sẽ bị đào thải, hoặc sẽ làm tổn hại đến khối đại đoàn kết mà kết quả
đều làm cho đất nước lâm nguy. Người chỉ rõ, phải thực hiện cho được khối đại
đoàn kết dân tộc. Chỉ có thế, nhân dân mới có đủ sức mạnh để giành, giữ và thực
thi quyền lực của mình, trong đó có quyền lực nhà nước.
Hồ Chí Minh cho rằng, quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân gắn liền với việc nhà nước phải làm tất cả để đem lại
một cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân.
Xuất phát từ tư tưởng nhân dân là chủ
thể của quyền lực chính trị, tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh được phát triển
thành nhân dân là chủ thể của nhà nước. Vì thế, việc nhận thức tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước phải được đặt trên cơ sở coi vấn đề nhà nước là một khía cạnh
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Nhà nước, theo Người, là của nhân dân
"Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nước ta
là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được
tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung
đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội". Nhân
dân sử dụng Nhà nước như một công cụ để thực hiện lợi ích của mình: đối với
nhân dân, thì công cụ của nhà nước dân chủ mới (Chính phủ, pháp luật, công an,
quân đội, v.v..) là để giữ gìn quyền lợi của nhân dân.
Khi bàn về vai trò của Nhà nước, Hồ
Chí Minh đã đưa ra quan điểm về nhân dân quản lý nhà nước. Điều đáng lưu ý là,
việc nhà nước tiến hành các hoạt động nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân
dân, thì đồng thời, đó cũng chính là nhằm tạo điều kiện để nhân dân có thể tham
gia quản lý nhà nước. Người viết: "... chỉ có chế độ của chúng ta mới thật
sự phục vụ lợi ích của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, bảo đảm mọi
quyền lợi của nhân dân, mở rộng dân chủ để nhân dân thật sự tham gia quản lý
Nhà nước. Vì vậy cho nên nhân dân ta đưa hết khả năng làm tròn nhiệm vụ người
chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nước ta mạnh, dân ta
giàu".
Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân của Hồ Chí Minh còn thể hiện trên mấy phương diện sau:
Thứ nhất, về pháp luật, Người viết: Pháp luật
của chúng ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động. Pháp luật
của ta lúc này, chưa tước bỏ quyền tư hữu, nhưng không ai được lợi dụng quyền
tư hữu để bóc lột thậm tệ nhân dân lao động. Pháp luật của ta là pháp luật thật
sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động.
Người khẳng định, "Phép luật là phép luật của nhân dân, dùng để ngăn cản
những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân
dân". Vì vậy, để có một "chính quyền trong sạch", phải kiên
quyết trừng trị những kẻ lợi dụng việc được nhân dân giao quyền, rồi cậy quyền
cậy thế đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cương quyết
xử lý một số cán bộ cao cấp của Nhà nước vi phạm pháp luật và Người luôn nhắc
nhở: Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa
chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và
gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức
sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung.
Thứ hai, về tổ chức bộ máy nhà nước, Hồ Chí
Minh nhiều lần nêu ra quan điểm về ba bộ phận cấu thành quan trọng của Nhà
nước, đó là cơ quan lập pháp - Quốc hội; cơ quan hành pháp - Chính phủ và cơ
quan tư pháp - Tòa án. Trong đó, Người nói đến Chính phủ nhiều nhất và cũng
chính ở đây chứa đựng nhiều quan điểm có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực
tiễn. Người viết: "Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục
đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp
đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là người đày
tớ trung thành tận tụy của nhân dân". Người khẳng định: "Chế độ của
ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân
dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều
nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ
giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng chính sách của
Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho"(9).
Kế thừa những giá trị trong tư tưởng
chính trị truyền thống của dân tộc, lại được soi sáng bởi quan điểm duy của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh thấy ở nhân dân một lực lượng vô tận. Trong tư
tưởng về nhà nước, nhân dân chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng. Hồ Chí Minh tin
tưởng vào sức mạnh to lớn của nhân dân, sức mạnh ấy một khi được tập hợp, tổ
chức, định hướng sẽ tạo nên những kỳ tích to lớn, có thể làm thay đổi hoàn toàn
bộ mặt lịch sử. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh niềm tin ấy của Hồ Chí
Minh là hoàn toàn đúng đắn.
Cái quan trọng nhất trong chính trị
là vấn đề thiết chế chính quyền nhà nước. Quyền lực chính trị là vấn đề trung
tâm của mọi cuộc cách mạng xã hội. Ở Hồ Chí Minh, nhà nước là nhà nước của dân,
do dân và vì dân; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Như thế, với Hồ Chí
Minh, Nhà nước không bao giờ đứng ngoài và đứng trên nhân dân.
Gắn chính trị với lòng dân cũng có
nghĩa là Hồ Chí Minh đã gắn chính trị với cơ sở xã hội sâu xa và bền vững của
nó. Một quan niệm "đem chính trị vào giữa dân gian" như tư tưởng của
Người là một quan niệm chính trị dân chủ về bản chất. Đã quan niệm chính trị
như thế thì nhà chính trị nói riêng, nhà nước nói chung trở nên đầy sức mạnh
bởi họ đang suy nghĩ bằng suy nghĩ của nhân dân, làm bằng phương thức nhân dân
và nói tiếng nói của nhân dân. Họ sẽ có đủ bản lĩnh đương đầu với mọi khó khăn
mà luôn chắc chắn một niềm tin vào chiến thắng.
Quan điểm chính trị nhân dân ở Hồ Chí
Minh gắn liền với việc làm cho người dân có đủ khả năng đảm nhận vai trò làm
chủ của mình. Người đặc biệt coi trọng việc giáo dục nhân dân. Ngay khi Nhà
nước ta mới ra đời, Người khẳng định: Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải
giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên
một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước
Việt Nam độc lập. Người đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân
dân bằng cách thực hiện: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người cũng yêu cầu nhân dân:
Mọi người Việt Nam phải biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức để có thể
tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà. Hồ Chí Minh yêu cầu người dân trước
hết phải biết đọc, biết viết để có thể tham gia vào công việc nhà nước. Điều
này có nghĩa là, người dân muốn thực hiện vai trò làm chủ của mình, muốn thực
hiện quyền lực cao quý của mình cần phải có những năng lực nhất định và Nhà
nước phải làm sao để nhân dân có được những năng lực ấy.
Như vậy, trên cơ sở vận dụng học
thuyết Mác - Lê-nin về nhà nước vào điều kiện cụ thể của cách mạng và xã hội
Việt Nam, đặc biệt là, trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn xây dựng
chính quyền nhân dân, xây dựng chế độ xã hội mới, Hồ Chí Minh đã nêu ra một hệ
thống các quan điểm về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đây thực sự là những chỉ
dẫn quý báu cả về lý luận và thực tiễn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
TƯ
TƯỞNG VÌ DÂN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH QUA LỜI CĂN DẶN MIỄN THUẾ NÔNG NGHIỆP
TRONG DI CHÚC
Nguyễn
Vǎn Hồng
Trước lúc đi xa Bác Hồ đã để lại
cho nhân dân ta một bản Di chúc bất hủ. Bản Di chúc Bác viết ngắn gọn, dung dị,
nhưng súc tích, chứa đựng tình cảm bao la như trời biển, bao hàm nội dung tư tưởng
về mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế-xã hội của hiện tại và tương lai.
Trong bản Di chúc Bác viết tháng 5-
1968, Người dành một đoạn nói về giai cấp nông dân Việt Nam. Sau khi tuyên
dương công lao to lớn và lòng trung thành vô hạn của nhân dân nói chung,
"đồng bào nông dân" đối với Đảng và Chính phủ trong kháng chiến chống
Pháp và đế quốc Mỹ nói riêng, Người cǎn dặn miễn thuế nông nghiệp cho nông dân:
"Trong bao nǎm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ,
đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng
và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khǎn gian
khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp nǎm
cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm
phấn khởi đẩy mạnh sản xuất".
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề
cập đến tư tưởng, tình cảm của Bác đối với nông dân qua lời cǎn dặn miễn thuế
nông nghiệp cho nông dân khi đất nước hoàn toàn giải phóng.
Từ khi ra đi tìm đường cứu nước đến
những ngày tháng cuối của cuộc đời, mọi hoạt động cách mạng của Người đều nhằm
mục đích cuối cùng vì lợi ích của dân tộc, tất cả vì con người. Tư tưởng, tình
cảm của Bác đối với giai cấp nông dân, đối với nền nông nghiệp nước nhà là một
phần trong tư tưởng lớn, vĩ đại nhất của Bác: Vì con người.
Sinh ra và lớn lên trong một gia
đình nhà nho nghèo, Nguyễn Sinh Cung được hưởng nền giáo dục gia đình "yêu
nước, thương nòi" cùng với truyền thống đấu tranh bất khuất của nhân dân,
của nhiều bậc sĩ phu yêu nước nổi danh. Ngay từ khi còn nhỏ, Anh tận mắt chứng
kiến đời sống khổ cực của những người nông dân vùng quê nắng mưa khắc nghiệt,
công việc đồng áng lam lũ quanh nǎm mà vẫn đói rét. Thêm vào đó là chế độ sưu
thuế nặng nề, phu phen tạp dịch của đế quốc thực dân, phong kiến đè nặng lên
người nông dân, đẩy họ đến tột cùng khổ cực. Anh xót xa trước cảnh người nông
phu phải đi mở đường từ Diễn Châu (Nghệ An) sang Lào để phục vụ kế hoạch khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp. Những người nông phu "sống chui rúc
trong những túp lều tranh thảm hại" nơi "ma thiêng nước độc", ốm
đau không thuốc men, không tổ chức y tế. Họ ra đi làm phu không có ngày trở về
với quê hương, gia đình.
Chịu ảnh hưởng của truyền thống quê
hương, gia đình và chứng kiến đời sống cùng cực của người dân mất nước, Nguyễn
Tất Thành sớm có lòng yêu nước, đứng hẳn về trận tuyến của người nông dân. Ngay
từ khi học ở trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành đã tham gia vào cuộc nổi dậy
chống thuế của nông dân 6 huyện tỉnhThừa Thiên Huế nǎm 1908. Phong trào tuy bị
thất bại, song người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành có được một bài học đấu
tranh đầu tiên vô cùng quý báu. Nǎm 1924, khi đang ở Matxcơva, trong "Báo
cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ", Nguyễn ái Quốc đã viết: "Chủ nghĩa
dân tộc là động lực của đất nước, chính nó đã gây ra cuộc chống thuế nǎm 1908,
nó dạy cho người cu ly biết phản đối, nó làm cho "người nhà quê" phản
đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối".
Mang theo tấm lòng yêu nước, thương
nòi, truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, của quê hương, nỗi khổ đau của
người dân mất nước, Nguyễn Tất Thành xuống tàu, bôn ba khắp nǎm châu tìm đường
cứu nước. Sau gần 10 nǎm, Nguyễn Tất Thành- Nguyễn ái Quốc đã đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin, tìm thấy con đường cứu nước. Khi được đọc luận cương của V.I. Lênin
về vấn đề dân tộc và thuộc địa, ngồi trong phòng một mình mà Anh nói to lên như
đứng trước đồng bào mình: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ. Đây là cái cần
thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta". Quá trình hòa
mình trong phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân thế giới cộng với tư chất
thông minh, nhanh nhạy, Nguyễn ái Quốc đã tích lũy cho mình vốn tri thức cách mạng
cả về lý luận lẫn thực tìễn.
Được chủ nghĩa Mác-Lênin soi sáng,
trong Nguyễn ái Quốc đã hình thành quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc: Giải
phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc
địa, giải phóng nhân loại.
Nǎm 1930, Nguyễn ái Quốc đã sáng lập
ra Đảng cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng đã vạch rõ con đường của cách mạng
Việt Nam: "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản". Ngay từ đầu Cương lĩnh của Đảng đã giương cao
hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là điểm sáng tạo, phát triển
nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản. Nguyễn ái Quốc cho rằng cách
mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến với
90% dân số là nông dân, có nền kinh tế lạc hậu như nước ta. Nghị quyết nǎm 1995
của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, đã
đánh giá sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam của Nguyễn ái Quốc: "Đó
là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn đã được Hồ Chí Minh nêu lên trong Cương lĩnh vắn
tắt". Cuộc cách mạng tư sản dân quyền, tiếp ngay sau đó là thổ địa cách mạng,
thực chất đó là cuộc cách mạng nông dân, lực lượng cách mạng nòng cốt là liên
minh công nông, do Đảng vô sản-Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Thổ địa
cách mạng, khẩu hiệu đồng thời là mục tiêu của nó là "Thực hiện người cày
có ruộng", đáp ứng nguyện vọng thiết tha của giai cấp nông dân. Vì thế
ngay từ đầu và trong suốt tiến trình cách mạng "đồng bào nông dân"
luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ và ra sức góp của, góp người,
vui lòng chịu đựng mọi khó khǎn gian khổ.
Cách mạng Tháng Tám thành công, từ
thân phận nô lệ, mất nước, nhân dân ta đã trở thành người làm chủ đất nước độc
lập. Song với dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, dân tộc ta lại bước vào cuộc
trường kỳ kháng chiến. Thấy rõ vai trò to lớn của lực lượng nông dân trong cách
mạng, Hồ Chí Minh luôn chǎm lo đời sống kinh tế, chính trị, vǎn hóa cho ho. Người
yêu cầu và chỉ rõ trách nhiệm của Đảng và Chính phủ: "Nếu dân đói, Đảng và
Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng
và Chính phủ có lỗi". Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào sức mạnh, vị trí của
nông dân trong cuộc "kháng chiến kiến quốc": "Muốn kháng chiến
thắng lợi, kiến quốc thành công ắt phải dựa vào quần chúng nông dân, muốn dựa
vào nông dân ắt phải bồi dưỡng lực lượng của họ. Muốn nông dân có lực lượng dồi
dào phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ǎn, áo mặc, nhà ở". Người chỉ rõ:
"Lực lượng của chúng ta là hàng chục triệu đồng bào nông dân lao động, sẵn
sàng chờ Chính phủ và Đảng lãnh đạo, để hǎng hái vươn mình dậy đánh tan ách nô
lệ, ách phong kiến và thực dân. Khéo tổ chức, khéo lãnh đạo thì lực lượng ấy sẽ
xoay trời chuyển đất, bao nhiêu thực dân và phong kiến cũng sẽ bị lực lượng ấy
đánh tan". Xác định vị trí, vai trò quan trọng của nông dân trong cách mạng,
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng chỉ lo "cơm ǎn, áo mặc" cho họ thì chưa đủ,
mà phải nâng cao dân trí cho họ, như thế họ mới được hưởng trọn vẹn độc lập, tự
do. Nếu như Lênin dạy: Sự ngu dốt là chỗ dựa cho bọn đế quốc, tư bản, thì Hồ
Chí Minh nói một cách đơn giản, dễ hiểu: Dân có học mới hiểu được chủ nghĩa, có
hiểu chủ nghĩa thì mới hǎng hái đấu tranh cho cách mạng, có như vậy dân tộc Việt
Nam mới trở nên "một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc
xứng đáng với nước Việt Nam độc lập". Người xem đói và rét đều là giặc, phải
diệt giặc đói, diệt giặc dốt, bởi vì "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ nǎm
1954, miền Bắc được giải phóng, miền Nam còn phải tiếp tục đấu tranh chống bọn
đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm. Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới:
Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, miền Bắc khôi phục kinh tế
sau chiến tranh, tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất
(1960- 1965), Hồ Chí Minh chỉ ra: "Đặc điểm to lớn nhất của ta trong thời
kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". Vấn đề nông
nghiệp, nông dân chiếm một vị trí quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiến
lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nền sản xuất nhỏ, 90% dân
số là nông dân, thực chất đây là một cuộc cách mạng nông dân, lực lượng nòng cốt
là liên minh công nông, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Nông dân có
nhiệm vụ quan trọng là sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội. Người chỉ ra
tầm quan trọng của nông nghiệp đối với công nghiệp và các ngành khác, đặc biệt
nhấn mạnh sản xuất nông nghiệp có tầm quan trọng đối với cách mạng miền Nam.
Người xem nông nghiệp là một mặt trận. Thắng lợi trên đồng ruộng của các chiến
sĩ nông dân là thắng lợi trên chiến trường miền Nam. Người chiến sĩ trên chiến
trường miền Nam sẽ chắc tay súng khi biết ở hậu phương miền Bắc có nhiều cánh đồng
5 tấn, vợ con và những người thân của họ được chǎm lo chu đáo về đời sống vật
chất, tinh thần. Nông nghiệp là hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam,
"thực túc binh cường". Muốn mặt trận nông nghiệp thắng lợi, điều đầu
tiên là phải xây dựng và củng cố ban quản trị hợp tác xã "Điều quan trọng
bậc nhất hiện nay để phát triển nông nghiệp là: Chỉnh đốn ban quản trị hợp tác
xã thật tốt".? Cốt lõi của việc này là xây dựng, chỉnh đốn chi bộ hợp tác
xã: "Cái gốc trong việc lãnh đạo hợp tác xã là vấn đề cho bộ Đảng cơ sở".
Bên cạnh việc xây dựng, củng cố ban quản trị hợp tác xã, Người yêu cầu nông dân
vươn lên hơn nữa, đoàn kết, hǎng hái sản xuất, thi đua lao động, cải tiến công
cụ dể nǎng suất ngày càng cao, vươn lên làm chủ xã hội về kinh tế, chính trị,
vǎn hóa.
Hành trang khi Bác ra đi tìm đường
cứu nước là tấm lòng yêu nước thương dân, trở về giải phóng dân tộc, lo cho
nhân dân ai cũng có cơm ǎn, áo mặc, ai cung được học hành. Trước khi vĩnh biệt
chúng ta Bác vẫn chưa yên lòng, vì biết rằng sau ngày đất nước toàn thắng nhân
dân ta, "đồng bào nông dân" đời sống còn gặp nhiều khó khǎn. Người
cǎn dặn miễn thuế cho nông dân, để họ được "hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm
niềm phấn khởi", tiếp bước trên chặng đường cách mạng, đẩy mạnh sản xuất.
Có lẽ không có ngôn từ nào diễn tả nổi tấm lòng bao la nhân ái, một tư tưởng trọn
đời vì dân của Hồ Chí Minh.
Kế thừa Di sản tưtưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta đã đề ra Nghị quyết Đại hội VIII (6-1996) về đường lối phát triển nông
nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa,
dân chủ hóa nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh. Vâng theo lời dặn của Người, Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 7 đã ra Nghị
quyết: "Thực hiện miễn thuế nông nghiệp theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh".
Việt Nam XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁT
TRIỂN CỦA VIỆT NAM
Nguyễn
Khánh
Những tư tưởng chính của Đảng về sự
phát triển của Việt Nam
Tư tưởng cơ bản về sự phát triển của
Việt Nam đã được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là: đưa Việt Nam nhanh chóng
thoát khỏi tình trạng nước nghèo, chậm phát triển, trở thành một quốc gia giàu
và mạnh, xã hội Việt Nam sẽ là một xã hội ổn định, dân chủ, bình đẳng, công bằng
và văn minh, toàn dân Việt Nam có cuộc sống an toàn, phong phú về vật chất và
tinh thần. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là chủ nghĩa xã hội mang đặc
điểm và bản sắc dân tộc Việt Nam, mang tính nhân văn, tính dân tộc và tính thời
đại.
Tư tưởng phát triển của Việt Nam là
sự kế thừa và phát triển lý thuyết về phát triển xã hội của Mác - Ăng-ghen -
Lê-nin - Hồ Chí Minh, là kết quả tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tri thức,
những kinh nghiệm có giá trị của thế giới về phát triển xã hội, phát triển con
người.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, những tư tưởng cơ bản này sẽ biến thành những chiến lược, tư tưởng chỉ
đạo và chính sách, thể hiện tinh thần khoa học, cách mạng trong thời kỳ mới,
phù hợp với những đặc điểm của Việt Nam, với yêu cầu, khả năng hiện thực của Việt
Nam và xu thế phát triển của thời đại.
Hai điều kiện cơ bản để thực hiện
thành công tư tưởng phát triển của Việt Nam là:
- Những giá trị khoa học, nhân văn
và cách mạng của tư tưởng phát triển được truyền bá sâu, rộng trong xã hội và
nhân dân, thuyết phục được các tầng lớp nhân dân rằng đó là con đường tốt nhất,
hướng đi đúng nhất, cách làm tốt nhất trong điều kiện nước ta để Việt Nam trở
thành một quốc gia dân chủ, văn minh, hùng mạnh.
Đây cũng chính là nền tảng tư tưởng,
nền tảng tinh thần của sự đoàn kết toàn dân tộc, của sự đồng thuận xã hội vững
chắc, của mối quan hệ thân thiết giữa dân với quân, giữa các giới đồng bào, giữa
người dân với người lãnh đạo. Nền tảng tư tưởng, nền tảng tinh thần ấy sẽ là sức
mạnh để nước ta, dân ta vượt mọi khó khăn đi tới thắng lợi.
Đây là điều kiện nhất thiết phải có
để bảo đảm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Không làm được như
vậy, không tạo ra được sự hiểu biết sâu sắc, lòng tin vững chắc trên cơ sở khoa
học cho toàn dân thì việc thực hiện sẽ hết sức khó khăn.
- Điều kiện cơ bản thứ hai là phải
xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị Việt Nam vững mạnh, tiêu biểu cho chế độ
dân chủ pháp quyền Việt Nam, có đủ ý chí và năng lực tổ chức, chỉ đạo, động
viên các lực lượng chính trị, xã hội trong cả nước thực hiện tư tưởng phát triển.
Một nhà nước thật sự của dân, có
trình độ tổ chức hiện đại và có hiệu năng quản lý cao là điều kiện không thể
thiếu để thực hiện được những tư tưởng phát triển Việt Nam.
Những yêu cầu cơ bản xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng phát triển Việt Nam
Theo những tư tưởng chính về sự
phát triển Việt Nam thì Nhà nước Việt Nam phải được xây dựng và hoàn thiện theo
3 yêu cầu: là một Nhà nước thật sự dân chủ, là một Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, là một Nhà nước hiện đại ở trình độ cao. Nói một cách khác, đó là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dân chủ và hiện đại.
Một là, Nhà nước Việt Nam phải là một
nhà nước dân chủ đích thực.
Nhân dân Việt Nam là chủ và làm chủ
đất nước Việt Nam. Dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhà nước là của dân,
do dân lập ra qua bầu cử tự do và hoạt động vì dân, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước vì dân.
Bản chất dân chủ của Nhà nước Việt
Nam được thể hiện trong cuộc sống thực tế. Quyền làm chủ của dân được thực hiện
trong mọi lĩnh vực của đời sống. Nhà nước có nghĩa vụ thực hiện và bảo đảm các
quyền tự do dân chủ của công dân. Người dân có quyền làm và có điều kiện làm những
công việc mà pháp luật không cấm. Quyền làm chủ của dân còn thể hiện ngay trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; qua nội dung thực chất của pháp luật
và qua việc thi hành pháp luật. Đó là chỗ khác nhau cơ bản giữa Nhà nước Việt
Nam với nhà nước ở các quốc gia theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
Ngày nay, hầu hết các đảng chính trị,
các nhà nước, những người cầm quyền ở các nước đều tự nhận là đấu tranh cho dân
chủ, là tôn trọng và thực hiện rất tốt các quyền tự do dân chủ của dân, đều
tuyên truyền đề cao chế độ dân chủ, chính sách dân chủ của mình. Nhưng thực tế
cho thấy ở không ít nơi, không ít quốc gia, không ít nhà nước nói dân chủ thì
nhiều, dân chủ trên giấy tờ, trên văn bản luật pháp thì tốt, nhưng hành động,
việc làm thì thiếu dân chủ, thậm chí trái với tinh thần dân chủ.
Tính chất dân chủ của Nhà nước Việt
Nam được thể hiện rất cụ thể:
Trước hết, qua hệ thống pháp luật,
từ Hiến pháp đến các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước; cách thức Nhà nước
xây dựng, ban hành, thi hành luật pháp; mức độ tham gia của dân vào việc xây dựng
luật pháp và các quyết định quan trọng của Nhà nước;
Thứ hai, ở tinh thần dân chủ trong
cách thức tổ chức, xây dựng các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; trong cơ
chế vận hành, trong mối quan hệ giữa các cơ quan ấy; trong sự phân công quyền lực
và sự kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền lực nhà nước;
Thứ ba, ở ý thức dân chủ của cán bộ,
công chức trong bộ máy nhà nước. ý thức này thể hiện qua mối quan hệ giữa những
cán bộ, công chức, nhất là những người có chức, có quyền với dân, qua mối quan
hệ giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức, các đoàn thể của dân;
Thứ tư, ở hiệu quả, tác động thực tế
của sự giám sát xã hội của dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước và cán bộ,
công chức nhà nước.
Chính vì nhận thức đúng, quan niệm
đúng đắn dân là chủ, dân làm chủ mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết luận rằng:
Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân; đảng viên Đảng Cộng sản
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân, cán bộ, công chức nhà
nước là công bộc của nhân dân.
Đảng lãnh đạo toàn dân, toàn xã hội
nhưng Đảng không phải là chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam được người làm chủ là nhân
dân tín nhiệm, tôn vinh, giao trách nhiệm lãnh đạo đất nước, lãnh đạo Nhà nước
để thực hiện quyền làm chủ của dân, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ đích thực
trên đất nước Việt Nam. Sứ mệnh này đòi hỏi Đảng Cộng sản cầm quyền tập trung
lãnh đạo công tác tư tưởng đối với toàn thể cán bộ, công chức của Nhà nước ở cả
ba hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp, làm thật tốt công tác tuyên truyền,
giáo dục cán bộ, đảng viên về tư tưởng dân chủ và đạo đức trọng dân, phục vụ
dân.
Dân chủ được thực hiện trên tất cả
các lĩnh vực thông qua hoạt động của nhà nước do dân cử ra và bằng các hình thức
dân chủ trực tiếp và gián tiếp. Trong các hoạt động dân chủ trực tiếp của người
dân thì quan trọng nhất và tiêu biểu nhất là các cuộc bầu cử dân chủ tự do
trong phạm vi toàn quốc. Một nhà nước dân chủ đích thực theo tư tưởng phát triển
của Việt Nam phải tổ chức được các cuộc tổng tuyển cử toàn quốc và các cuộc bầu
cử ở địa phương đúng với ý nghĩa bầu cử tự do trong một chế độ tự do, dân chủ.
Nhớ lại cuộc Tổng tuyển cử tháng 1-1946 ở nước ta, trong lúc “nước sôi lửa bỏng”,
thù trong, giặc ngoài, nạn đói và thiên tai đang hoành hành nhưng cuộc Tổng tuyển
cử đầu tiên của nước Việt Nam độc lập và tự do vẫn diễn ra với sự náo nức chưa
từng có của mỗi người dân, đúng là ngày hội của toàn dân. Cuộc Tổng tuyển cử ấy
đã trở thành một sự kiện tiêu biểu cho tư tưởng tự do, dân chủ và đoàn kết dân
tộc.
Với những tư tưởng tốt đẹp của Đảng
về sự phát triển xã hội Việt Nam, tới đây, ngay trong những năm đầu của thập
niên thứ 2 của thế kỷ XXI, Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý sẽ phải bằng mọi
cách thực hiện quyền dân chủ, tạo ra và phát huy không khí dân chủ, tự do cho
các hoạt động dân chủ trực tiếp ở nước ta.
Hai là, Nhà nước Việt Nam phải là một
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền là một phương
thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trong một xã hội dân chủ và văn minh.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đi liền với quan niệm về xây dựng và phát triển
dân chủ. Để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phải rất coi
trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp. Đảng lãnh đạo xây dựng
nhà nước pháp quyền thì phải đặt nhiệm vụ xây dựng luật pháp và thi hành luật
pháp lên hàng đầu, bảo đảm cho luật pháp thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng và
quyền lực của nhân dân, thực sự bảo vệ được các quyền dân chủ của công dân và
con người Việt Nam. Một nhà nước mạnh là một nhà nước quản lý đất nước, quản lý
xã hội bằng pháp luật theo mục tiêu chính trị đã xác định, làm cho pháp luật có
hiệu lực cao trong thực tế.
Những nội dung cơ bản của một nhà
nước pháp quyền là:
- Luật pháp chiếm vị trí tối thượng
trong hoạt động của nhà nước và trong đời sống xã hội. Luật pháp được xây dựng
và quyết định một cách dân chủ đúng với ý nghĩa nhà nước của dân, do dân, thể
hiện được ý chí, trí tuệ và quyền lực của dân.
- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật và theo pháp luật. Người dân sống và làm việc theo pháp luật. Nhà nước phải
tổ chức và hoạt động sao cho quyền lực nhà nước được sử dụng theo đúng Hiến
pháp và pháp luật, sao cho mọi quyền lực đều có sự giám sát, kiểm soát của nhân
dân và có sự kiểm tra, kiểm soát ngay trong nội bộ bộ máy nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước đặt
dưới pháp luật, nhà nước phục tùng pháp luật và hành động theo pháp luật.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền có
giá trị phổ biến trong thế giới hiện đại nhưng thể hiện không đồng nhất ở các
nước. Các biểu hiện cụ thể phụ thuộc vào điều kiện lịch sử của mỗi nước. Hiện
nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhà nước này về cơ bản có những điểm giống
như các nhà nước pháp quyền khác nhưng có 2 đặc điểm riêng rõ rệt là:
Quyền lực nhà nước là thống nhất.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam không theo thể chế “tam quyền phân lập”. Quyền
lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp là ba nhánh quyền lực trong chỉnh thể
quyền lực nhà nước thống nhất, có tính độc lập tương đối, có sự phối hợp và tác
động lẫn nhau, không có nhánh quyền lực nào thâu tóm toàn bộ quyền lực nhà nước
vào tay mình.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, có quyền lập hiến, lập pháp, nhưng không phải là toàn quyền. Có
những quyết định đặc biệt quan trọng phải do nhân dân trực tiếp xem xét và quyết
định qua trưng cầu dân ý được quy định cụ thể trong Hiến pháp.
Đảng Cộng sản Việt Nam bằng tư tưởng
cách mạng, đường lối chính trị, phương pháp lãnh đạo dân chủ và khoa học, với
nhận thức và ý thức “dân là gốc” hoàn toàn có đủ bản lĩnh, trí tuệ và nghị lực
lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ba là, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam phải là một nhà nước hiện đại.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà nước Việt Nam cũng phải gấp rút vươn lên trình
độ hiện đại để tiến kịp thời đại. Xét về trình độ khoa học và hiện đại, sau hơn
hai mươi năm đổi mới, mặc dầu đã có những thành tựu và tiến bộ về nhiều mặt,
không thể không thừa nhận rằng bộ máy nhà nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, đang tụt
hậu khá xa so với các nước trong khu vực và các nước phát triển trên thế giới, nhất
là về năng lực tổ chức, phương pháp vận hành, kỹ năng chuyên môn và hiệu quả quản
lý thực tế của cả bộ máy, con người trong bộ máy. Do vậy, Đảng Cộng sản cầm quyền
phải lãnh đạo gắt gao việc hiện đại hóa bộ máy nhà nước. Bản thân các tổ chức
và con người trong bộ máy nhà nước phải phấn đấu tự đổi mới mình, tự hiện đại
hóa mình trước những tác động mạnh và sâu sắc của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Nhà nước ta phải nghiên cứu, tổng kết
từ thực tiễn 64 năm hoạt động của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để rút ra những bài học có giá trị cao về tổ
chức và hoạt động quản lý, coi trọng hơn nữa việc tìm hiểu, tiếp thu những tri
thức, những giá trị phổ biến trên thế giới về khoa học tổ chức, khoa học quản
lý, khoa học và công nghệ hành chính để tăng tính hiệu quả trong quản lý của
Nhà nước.
Mức độ hiện đại của bộ máy nhà nước
được thể hiện trước hết ở trình độ nhận thức, kiến thức, kỹ năng thực hành và
tính chuyên nghiệp cao của đội ngũ cán bộ, công chức. Trình độ hiện đại của cán
bộ, công chức được đánh giá bằng hiệu quả, hiệu suất, năng lực sáng tạo. Một đội
ngũ cán bộ quản lý hành chính giỏi và chuyên gia hành chính giỏi là cơ sở và điều
kiện chủ yếu của một nền công vụ chất lượng cao. Chất lượng cao của nền công vụ
được xem là tiêu chí số một của một nền hành chính hiện đại, của một nhà nước
hiện đại.
Từ 10 năm nay, các diễn đàn toàn cầu
về cải cách chính phủ (hoặc tái tạo chính phủ) do Liên hợp quốc tổ chức hằng
năm đều khuyến nghị các nhà nước rằng: một quốc gia muốn đứng vững được và thịnh
vượng trong cuộc cạnh tranh kinh tế toàn cầu hiện nay, phải cải cách chính phủ,
tái tạo chính phủ, phải xây dựng một chính phủ có chất lượng cao, một chính phủ
chuyên nghiệp, một chính phủ điện tử, một chính phủ tiết kiệm và có hiệu năng
cao. Trong đó, nhấn mạnh đến xây dựng, hoàn thiện nền công vụ chất lượng cao với
những nhà quản lý và công chức có trình độ chuyên môn cao về hành chính, quản
trị và làm việc chuyên nghiệp.
Bộ máy quản lý hành chính nhà nước ở
trình độ hiện đại phải được tổ chức và vận hành một cách khoa học, tinh gọn,
các bộ phận hoạt động ăn khớp như các chi tiết một cỗ máy, một dây chuyền sản
xuất, trách nhiệm, thẩm quyền của từng đơn vị, từng cá nhân rõ ràng, minh bạch,
không chồng chéo, trùng lặp về chức năng, trách nhiệm.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dân chủ và hiện đại là một sự nghiệp lớn.
Những công việc về đổi mới điều chỉnh tổ chức, nhân sự, phương thức quản lý nhà
nước sẽ tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, cần tiến hành một
cách thận trọng và vững chắc, phải điều tra nghiên cứu kỹ trước khi triển khai,
phải chỉ đạo chặt chẽ trong từng khâu thực hiện và phải kiểm điểm, rút kinh
nghiệm sau từng giai đoạn. Thận trọng và vững chắc, nhưng không được do dự và
chậm trễ, không được để cho những yếu kém, trì trệ kéo dài, nhất là về tổ chức
và vận hành bộ máy nhà nước gây ảnh hưởng xấu đến tiến trình phát triển nhanh
và bền vững của đất nước, đến việc thực hiện các mục tiêu chính trị chung của Đảng
và nhân dân./.
Comments[ 0 ]
Post a Comment