KẾ HOẠCH TỔ CHỨC XEMINA
(Dùng cho hệ đào tạo theo chương
trình tín chỉ)
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Bài “Chương V: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế”
- Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Trang
- Thực hiện tại lớp: D47C
- Thời gian thực hiện: Thứ ngày
/1/2016
I. MỤC TIÊU, YÊU CẦU
1. Mục tiêu
- Về kiến thức:
Thông qua xêmina sinh viên nắm được
nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết
quốc tế. Đồng thời nhận thức được vai trò, vị trí và yêu cầu của việc phát huy
khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước hiện nay.
- Cñng cè kiÕn thøc ®· häc, hiểu rõ hơn, sâu rộng hơn nội dung của nội dung đại đoàn kết trong tư tưởng
Hồ Chí Minh đã học vµ
n©ng cao nhËn thøc chÝnh trÞ, t tëng. Nắm được những vấn đề trọng tâm,
khắc phục những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu.
- T¨ng cêng mèi quan hÖ gi÷a ngêi d¹y vµ ngêi häc.
- Về kỹ năng:
Trang bị cho sinh viên những kỹ năng
trong việc vận dụng những lý thuyết đã học vào thực tiễn. Biết vận dụng linh
hoạt những kiến thức đã học vào từng sự việc cụ thể cũng như những vấn đề mới
nảy sinh trong giai đoạn hiện nay liên quan đến vấn đề đại đoàn kết dân tộc và
đoàn kết quốc tế. Việc học tập và nghiên cứu bài giúp sinh viên nâng cao khả
năng thực hành, rèn luyện tư duy khoa học, đặc biệt là để góp phần giữ gìn và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong giai đoạn hiện nay.
- Phát triển kỹ năng cộng tác, làm
việc nhóm; kỹ năng tư duy sáng tạo, khám phá tìm tòi; trau dồi, phát triển năng
lực đánh giá và tự đánh giá.
- Nâng cao tính chủ động, sáng tạo, tự
nghiên cứu và rèn luyện khả năng trình bày, bảo vệ ý kiến trước “đám đông” cho
sinh viên.
- Về thái độ:
+ Tạo cho sinh viên niềm yêu thích,
sự say mê học tập, nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Góp phần nâng cao ý thức xây dựng và bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc.
Củng cố ý thức tự lực tự cường dân tộc.
+ Sinh viên có ý thức chấp hành
nghiêm chỉnh quy chế đào tạo, ý thức trách nhiệm với các hoạt động nhóm.
2. Yêu cầu
- Đối với giảng viên:
+ Giảng viên điều khiển sinh viên tham gia phát biểu ý kiến
về những nội dung câu hỏi và bài tập đã chuẩn bị trước.
+ Tổng hợp ý kiến của sinh viên, sau đó nhận xét đánh giá và
đưa ra kết luận cuối cùng về từng nội dung.
+ Trong khi sinh viên phát biểu ý kiến
sẽ có câu hỏi gợi ý để sinh viên trả lời.
- Đối với sinh viên:
+ Sinh viên phải chuẩn bị câu hỏi và bài
tập từ trước khi thảo luận tại lớp với đề cương chi tiết.
+ Khi giảng viên điều khiển thảo luận, sinh viên tự giác phát
biểu ý kiến, đồng thời lắng nghe ý kiến người khác, chủ động ghi chép những nội
dung cần thiết.
+ Sinh viên mạnh dạn nêu ra những ý kiến thắc mắc cần giải
đáp.
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP XEMINA
1. Nội dung
Tổ
chức cho sinh viên xêmina 02 nội dung sau:
Câu
1: Đoàn kết thống
nhất trong Đảng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Câu 2: Phát huy bài học sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vào công cuộc đổi mới hiện
nay
Đây
là những vấn đề đang đặt ra hiện nay, yêu cầu sinh viên cần vận dụng Tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết để giải quyết.
2. Phương pháp
-
Sinh viên tự nghiên cứu vấn đề được giao, các nhóm phân tích, đánh giá và đưa
ra phương án giải quyết.
-
Trên cơ sở đó, sinh viên chia thành 2 nhóm, các nhóm họp thảo luận phương án
giải quyết vấn đề, các thành viên của nhóm đưa ra ý kiến. Từng nhóm sẽ cử đại
diện của mình trình bày và trả lời câu hỏi của các nhóm khác.
-
Giáo viên đánh giá thái độ làm việc của sinh viên, nhận xét các phương án mà
sinh viên đưa ra và kết luận hướng giải quyết phù hợp.
III. TÀI LIỆU PHỤC
VỤ GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP
1. Tài liệu bắt buộc
- Bộ Giáo dục và
đào tạo, (2014), Giáo trình Tư tưởng Hồ
Chí Minh, Hà Nội. [Nguồn: Thư viện
Học viện An ninh nhân dân]
- Hội đồng Lý
luận Trung ương chỉ đạo biên soạn (2006),
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. [Nguồn:
Thư viện Học viện An ninh nhân dân]
2. Tài liệu tham khảo
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, 12 tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[Nguồn: Thư viện Học viện An ninh
nhân dân]
- Đại tướng
Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (2001),: Tư
tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. [Nguồn: Tủ
sách Bộ môn LLCT và KHXHNV]
- Song Thành
(2006), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi
lạc, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. [Nguồn: Tủ sách Bộ môn LLCT và KHXHNV]
-
PGS, TS. Phùng Hữu Phú (1995), Hồ Chí Minh với chiến lược đại đoàn kết, Nxb. CTQG, Hà Nội. [Nguồn:
Tủ sách Bộ môn LLCT và KHXHNV]
- Hà Huy Thông (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề cơ bản
trong quốc phòng, quân sự và đại đoàn kết, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.
- Website
+ http://www.dangcongsan.vn
+ http://lyluanchinhtric500.blogspot.com
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Chuẩn bị
-
Giáo viên chuẩn bị vấn đề và hướng dẫn giải quyết.
-
Sinh viên tự nghiên cứu vấn đề đã được giao và đưa ra phương án giải quyết.
-
Sinh viên từng nhóm lập kế hoạch giải quyết vấn đề, đưa ra những nhận định, yêu
cầu và phương hướng xử lý vấn đề.
2. Tiến hành
Xêmina
được tiến hành trong thời gian 02 tiết do giáo viên điều khiển, với các công
việc cụ thể như sau:
- Nêu
tình huống bằng clip chiếu trên máy chiếu đa năng.
-
Sinh viên các nhóm trình bày phần chuẩn bị, trả lời câu hỏi phản biện của các
nhóm khác.
-
Giáo viên nêu vấn đề cần tập trung thảo luận, nhận xét ưu, khuyết điểm của từng
nhóm và tổng hợp, đi đến thống nhất về hướng xử lý.
IV. THỜI GIAN THỰC HIỆN
Buổi
xemina được tiến hành vào ngày /1/2016
LÃNH ĐẠO BỘ MÔN
Đại tá, PGS, TS. Vũ Đình Oánh
|
NGƯỜI LẬP KẾ HOẠCH
Nguyễn Thị Thu Trang
|
CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN XÊMINA
(Dùng cho hệ đào
tạo theo chương trình tín chỉ)
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Bài “Chương V: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế”
CÂU
HỎI XÊMINA:
Câu
1: Đoàn kết thống
nhất trong Đảng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu 2: Phát huy bài học
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vào công
cuộc đổi mới hiện nay
ĐÁP
ÁN XÊMINA:
Câu
1: Đoàn kết thống nhất trong Đảng theo Tư tưởng
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?
Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Người
coi là vấn đề quan trọng, mang ý nghĩa sống còn để giữ vững vai trò lãnh đạo
cách mạng của Đảng. Đoàn kết thống nhất là nguồn gốc của sức mạnh, là then chốt
của mọi thành công. Vì thế suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi của mình,
Người đã đặc biệt chăm lo xây dựng rèn luyện để Đảng ta trở thành một khối đoàn
kết thống nhất. Trước khi từ biệt chúng ta để về với thế giới vĩnh hằng, trong
Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, Người đã căn dặn: “Trước hết nói về
Đảng, nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ
chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân
ta. Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
- Truyền thống đoàn kết của Đảng có cội nguồn từ truyền
thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Đối với nước ta, thắng lợi trong đấu tranh
dành chính quyền, trong đấu tranh dựng nước, giữ nước và những thành quả bước
đầu trong xây dựng CNXH (đặc biệt là những thành tựu củ hơn 20 năm thực hiện
công cuộc đổi mới của đất nước). Xét đến cùng đều là kết quả của sự đoàn kết,
thống nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Nói một cách khác, sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
- Lịch sử hình thành và
phát triển của dân tộc Việt Nam gắn liền với truyền thống yêu nước, đoàn kết,
kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm, khoan dung độ lượng. Trải qua lịch sử
hàng ngàn năm, truyền thống ấy được phát triển ngày càng phong phú, khắc
hoạ ngày càng đậm nét trong văn hoá, bản sắc dân tộc và là bộ phận hợp thành
sức mạnh dân tộc.
- Trong quá trình tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã sớm
tìm ra nguyên nhân thất bại của các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của
các vị tiền bối, chính là đã không phá được, âm mưu “Chia để trị” mà thực
dân Pháp thiết lập ở Việt Nam và Đông Dương. Bằng âm mưu thâm độc ấy thực dân
Pháp muốn phá vỡ truyền thống đoàn kết sức mạnh trường tồn của dân tộc Việt
Nam. Hồ Chí Minh đã tìm ra nguồn động lực, sức mạnh giải phóng cho dân tộc ngay
trong lòng mọi người dân Việt Nam. Từ truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn
kết của dân tộc đã tạo thành sức mạnh của các phong trào đấu tranh chống ngoại
xâm nối tiếp nhau đòi lại nền độc lâp tự do cho Tổ quốc.
Thực tế đã cho ta thấy rõ, nhờ đoàn kết một lòng, thực
hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh, qua 78 năm đấu tranh cách mạng tuyệt đại bộ phận
cán bộ, đảng viên của Đảng đã đoàn kết nhất trí, phấn đấu hy sinh không sợ khó
khăn gian khổ. Phấn đấu vì mục tiêu: Vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ, văn minh; Vì độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước Việt Nam XHCN.
- Bằng sức mạnh đại đoàn kết, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta
đấu tranh thắng lợi trong cách mạng giải phóng dân tộc và hiện nay đang lãnh
đạo cách mạng Việt Nam từng bước quá độ tiến lên CNXH. Nhiệm vụ trước mắt là
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, lấy việc
phát triển kinh tế là trọng tâm đưa đất nước Việt Nam từng bước đi lên. Đoàn
kết trong Đảng đã trở thành hạt nhân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
đoàn kết quốc tế rộng rãi để tạo nên sức mạnh cho cách mạng Việt Nam. Nhưng
thực tế trong Đảng vẫn còn: “Một bộ phận cán bộ đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt
các cấp, yếu kém cả về phẩm chất, năng lực, vừa thiếu tính tiên phong gương
mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ”.
- Điều đó đã làm giảm sút năng lực lãnh đạo và sức chiến
đầu của Đảng, ảnh hưởng đến chính sách đại đoàn kiết dân tộc. Vì vậy, năm bài
học kinh nghiệm đã được ĐH Đảng toàn quốc lần thứ IV của Đảng rút ra từ
thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mà
đến nay vẫn còn nguyên giá trị: Đó là:
1. Đoàn kết thống nhất trong Đảng phải trên cơ sở chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương chính sách, đúng
đắn của Đảng. Mục tiêu lý tưởng của Đảng nhất quán là Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, đó là điểm tập trung quy tụ mọi tổ chức Đảng, đảng viên
và toàn thể quần chúng nhân dân xung quanh Đảng để thực hiện mục tiêu cao cả
đó. Nếu xa rời mục tiêu lý tưởng này thì nội bộ Đảng sẽ bị chia rẽ, sự thống
nhất của các tổ chức Đảng từ trung ương cho đến cơ sở, mọi cán bộ đảng viên sẽ
mất phương hướng. Cán bộ đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng,
của nhân dân lên trên hết như Bác Hồ đã từng căn dặn: “Ngoài lợi ích của giai
cấp, của nhân dân, của dân tộc Đảng ta không có lợi ích gì khác”
2. Thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng;
trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Đây là điều kiện quan trọng đảm bảo cho toàn Đảng luôn thống nhất về tổ chức tư
tưởng và hành động. Các tổ chức Đảng thực hiện tốt vấn đề này sẽ quy tụ được
trí tuệ của đông đảo đội ngũ cán bộ đảng viên và tập thể cấp uỷ; Đề cao trách
nhiệm cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp. Ở cơ sở sẽ xác định đúng
nhiệm vụ chính trị, đề ra nghị quyết và các giải pháp tổ chức thực hiện sẽ được
sát đúng thực tế phù hợp với cơ sở. Các nghị quyết sẽ được nhận thức thống
nhất, những sai lầm khuyết điểm cũng được phát hiện và sửa chữa kịp thời. Loại
trừ từ gốc những mầm mống dẫn tời tình trạng không thống nhất về tư tưởng, tổ
chức và hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ dân chủ trong Đảng là nền
tảng cho sự đoàn kết “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển
sự đoàn kết thống nhất của Đảng”.
3. Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ quy định về tự phê bình
và phê bình trong Đảng. Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nâng
cao trí tuệ, phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn trong Đảng. Tự phê bình và
phê bình đòi hỏi phải có tính Đảng, tính nguyên tắc cao; Phải đảm bảo tự phê
bình và phê bình để tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường
mỗi quan hệ giữa Đảng và quần chúng, là nội dung thường xuyên của sinh hoạt
Đảng. Vì vậy, mỗi cán bộ đảng viên phải coi đấu tranh tự phê bình và phê bình
trong Đảng cần thiết như cơm ăn, nước uống và không khí thở hàng ngày không
được lơ là chểnh mảng. Nếu không thực hiện tốt điều này sẽ dễ dẫn đến mất đoàn
kết trong Đảng; Nhưng đồng thời phải kịp thời ngăn chặn các biểu hiện lợi dụng
dân chủ, lợi dụng phê bình gây chia rẽ mất đoàn kết.
4. Thường xuyên giáo dục và bồi dưỡng tình thương yêu đồng
chí giữa cán bộ đảng viên. Cách mạng đòi hỏi đội ngũ cán bộ đảng viên phải gắn
bó chặt chẽ với nhau không chỉ bằng tổ chức mà còn gắn bó với nhau bằng tình
thương và lòng nhân ái của những người cùng chung chí hướng, cùng chung lý tưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: Tình thương và lòng nhân ái là sự thống nhất
giữa lý trí, tình cảm và tinh thần. Không có lý trí thì không thể xây dựng được
một Đảng cách mạng chân chính; Nhưng không có tình cảm cách mạng, tình đồng
chí, tình thương yêu giữa con người với nhau, thì đoàn kết trong Đảng chỉ là
hình thức. Đối với tổ chức cơ sở Đảng sự hiểu biết cặn kẽ về công tác, về điều
kiện sinh hoạt và hoàn cảnh của nhau… là những yếu tố góp phần quan trọng xây
dựng nên khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Vì vậy, phải thường xuyên quan
tâm giáo dục và bồi dưỡng tình thân ái đồng chí và sự cảm thông sâu sắc giữa
đội ngũ cán bộ đảng viên với nhau.
5.
Tập thể cấp uỷ, các đồng chí trong ban thường vụ nhất là đồng chí bí thư phải
thực sự là trung tâm đoàn kết. Từ trung tâm đoàn kết đó mới quy tụ được đội ngũ
cán bộ, đảng viên, mọi thành viên trong hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân
dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Câu
2: Phát huy bài học sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vào công cuộc đổi mới hiện
nay?
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, làm thay đổi cả vận mệnh
của dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân Việt Nam. Nhận định về thắng lợi vĩ đại
của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ
nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã
đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc”(1).
1. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm
1945 - biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
- Thành công của Đảng về lãnh đạo phát
huy sức mạnh toàn dân tộc trong đấu tranh giành chính quyền cách mạng, trước
hết là trong hoạch định đường lối cách mạng.
Với chủ trương, chính sách đúng đắn phù hợp với quyền lợi và
nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng và được bổ sung, hoàn thiện xuyên suốt trong quá trình chuẩn bị để tập
hợp lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám, thể hiện rõ nét nhất là quyết định thành
lập Mặt trận Việt Minh theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám (tháng
5-1941). Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình
và Điều lệ nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc.
Bốn mươi bốn điểm trong Chương trình của Mặt trận Việt Minh
là một hệ thống các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo
dục, xã hội, ngoại giao; những chính sách cụ thể đối với các tầng lớp công
nhân, nông dân, binh lính, trí thức, công chức, học sinh, phụ nữ, tư sản, địa
chủ,… Tinh thần cơ bản của chương trình này là “cốt thực hiện hai điều mà toàn
thể đồng bào đang mong ước:
1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập;
2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do’’(5).
Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh sau đó được đúc
kết thành 10 chính sách lớn được thực hiện ở khu giải phóng Việt Bắc và được
Đại hội Quốc dân Tân Trào thông qua tháng 8-1945, trở thành chính sách cơ bản
sau này của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định:
“Cái tên Việt Nam
độc lập đồng minh rất rõ rệt, thiết thực và hợp với nguyện vọng
toàn dân. Thêm vào đó, chương trình giản đơn, thiết thực mà đầy đủ của Mặt trận
gồm có 10 điểm như bài ca tuyên truyền đã kể:
Có mười chính sách bày ra,
Một là ích quốc, hai là lợi dân” (6).
Đó chính là cơ sở quan trọng để đoàn kết, tập hợp
mọi lực lượng dân tộc.
Cùng với chủ trương đoàn kết, tập trung nhiệm vụ giải phóng
dân tộc, phù hợp với khát vọng của toàn thể dân tộc, đi đôi với việc chăm lo
củng cố khối liên minh công nông, Đảng ta rất coi trọng việc đoàn kết, tập hợp
các lực lượng khác: thanh niên, phụ nữ, học sinh, trí thức, tiểu thương, tư
sản, địa chủ…, kịp thời đưa ra hình thức tổ chức thích hợp, đa dạng nhằm tập
hợp đông đảo lực lượng nhân dân.
Chính vì vậy, Đảng ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của
cả dân tộc trong cao trào kháng Nhật, cứu nước và trong Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám.
- Nhạy bén trong việc xác định rõ kẻ
thù, mục tiêu cách mạng trong từng thời điểm, kịp thời đề ra khẩu hiệu đấu
tranh thích hợp, đáp ứng nguyện vọng bức thiết của quần chúng.
Ngày 12-3-1945, đúng ba ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban
Thường vụ Trung ương đã ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta. Đảng ta đã kịp thời chỉ rõ kẻ thù chính,
kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo
chính là phát-xít Nhật và quyết định thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát-xít Nhật -
Pháp’’ bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát-xít Nhật’’. Chỉ thị cũng nhấn mạnh đến
việc phải mở rộng cơ sở của Mặt trận Việt Minh, nhằm đoàn kết, tập hợp
mọi lực lượng nhân dân vào cao trào kháng Nhật cứu nước. Đó chính là thực hiện
chính sách đoàn kết, phân hóa hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ mọi lực lượng có thể
tranh thủ. Một tháng sau khi Chỉ thị ra đời, ngày 12-4-1945, Mặt trận Việt Minh
ra lời kêu gọi Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị quan chức ái quốc Việt Nam
và Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị huynh thứ ái quốc.
Nội dung các lời kêu gọi ấy đã góp phần đẩy nhanh quá trình phân hóa và tranh
thủ một bộ phận vào lúc cách mạng bùng nổ.
Khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn đói’’ đã đáp ứng
nguyện vọng khẩn thiết, cấp bách trước sự sinh tồn của đại đa số nhân dân, là
một nghệ thuật phát động quần chúng, hình thức đấu tranh thích hợp nhất lúc bấy
giờ để đưa hàng triệu quần chúng đi từ hình thức đấu tranh thấp đến hình thức
đấu tranh cao, từ đấu tranh cho quyền lợi kinh tế hằng ngày đến giác ngộ chính
trị. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng sức mạnh tổng hợp của cả
dân tộc, của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Toàn dân nổi dậy, cả nước đồng
lòng đứng lên. Từ chiến khu về đồng bằng, từ nông thôn đến thành thị, rồi cả
thành thị cùng nông thôn nhất tề nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng sinh động về
sức mạnh đồng thuận của cả dân tộc Việt Nam, khi được Đảng khơi dậy, tổ chức
tập hợp với tinh thần tự lực, tự cường. Thắng lợi đó đã khẳng định trong thực
tế lòng tin tuyệt đối của quần chúng nhân dân vào đường lối cứu nước, giải
phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Bài học phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay
Bài học về phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân, đoàn kết,
tập hợp mọi lực lượng dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám vẫn còn giữ
nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện
nay.
- Qua 30 năm tiến hành kháng chiến
chống ngoại xâm (1945 - 1975), truyền thống quý báu ấy đã được nâng lên tầm cao
mới, trở thành động lực và sức mạnh chủ yếu của dân tộc ta, là một trong những
nhân tố có ý nghĩa quyết định đưa đến những thắng lợi vĩ đại của cách mạng nước
ta từ năm 1930 đến nay.
- Vào những năm 80 của thế kỷ XX, đứng
trước tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, đổi mới trở thành yêu
cầu có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh dân tộc. Đại hội VI của Đảng (năm
1986) đã hoạch định đường lối đổi mới đất nước, chỉ rõ bốn bài học kinh nghiệm
lớn, trong đó bài học đầu tiên là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải
quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc’’(10), xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám đã ra Nghị quyết 8b (ngày 27-3-1990) về
đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân, trong đó nhấn mạnh quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
- Đến Đại hội VII của Đảng (năm 1991),
lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định lấy khối liên minh công nhân - nông
dân - trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Điều đó thể
hiện: Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò của các giai tầng
trong xã hội, nhất là của tầng lớp trí thức đối với sự nghiệp cách mạng nước ta
trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ và kinh
tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng
sản xuất. Cương lĩnh (năm 1991) nêu năm bài học lớn được rút ra từ
thực tiễn cách mạng, trong đó có bài học: “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử”(11)
và “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế”(12). Đại hội VII của Đảng
chỉ rõ: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quan
hệ giữa Đảng với nhân dân bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự
nghiệp cách mạng. Nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta chính là ở chỗ
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân”(13); dân chủ “vừa là một mục
tiêu vừa là một động lực của công cuộc đổi mới xã hội ta”(14).
- Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII
của Đảng đã rút ra một trong những nguyên nhân trọng yếu dẫn đến thành công của
Đảng trong hoạch định đường lối và thực hiện đường lối đổi mới: “Chính những ý
kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối
đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm
phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được
những thành tựu hôm nay”.
- Đại hội VIII tiếp tục khẳng định tinh
thần của Đại hội VII và nêu cao phương châm: Tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng,
đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay
đang định cư ở nước ngoài; có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
- Đại hội IX có bước phát triển cụ thể
hơn nữa về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân: “Thực hiện đại đoàn kết các
dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa
tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang
công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình Việt Nam dù
sống trong nước hay ở nước ngoài”; “lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất,
vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương
đồng”; “trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức”. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế,
của toàn xã hội”(15). Như vậy, trong thời kỳ mới, quan điểm nhất
quán của Đảng ta là: đại đoàn kết toàn dân, đồng thuận mọi giai tầng, trên cơ
sở giải quyết hài hòa các lợi ích, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của toàn
xã hội, là động lực chủ yếu để phát triển đất nước trong giai đoạn cách
mạng mới.
- Nhằm cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết
Đại hội IX, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về Phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định
bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội X
của Đảng khẳng định: “đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi
mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: phát
huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố thứ hai, sau thành tố về tiếp tục nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đây chính là hai thành tố quan
trọng, quyết định thực hiện thành công những nhiệm vụ căn cốt nhất của toàn
Đảng và toàn dân ta trong nhiệm kỳ 2011 - 2015, đó là: đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một thành tố được
nêu trong chủ đề của đại hội IX và Đại hội X, nay khẳng định lại không chỉ để
nhấn mạnh mà còn nhằm làm sáng tỏ hơn bản chất và nội dung của vấn đề thông qua
thực tiễn đổi mới.
- Nghị quyết Đại hội XI của Đảng là sự
kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện sự
nhất quán kiên định tư tưởng chính trị và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh -
tư tưởng chính trị và phương pháp cách mạng dựa trên sự bố trí các lực lượng xã
hội, trên cơ sở vận dụng nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, quan điểm dân tộc vào
thực tiễn Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Vận động tất cả lực
lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành
lực lượng toàn dân”(18).
- Phát huy truyền thống đại đoàn kết
toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử trong công cuộc đổi mới, trước những vận hội mới, nhưng cũng không ít
khó khăn, thách thức đặt ra trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất
nước, hơn bao giờ hết, Đảng cần tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, giữ vững và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và sự đồng thuận của
toàn xã hội trong tiến trình xây đựng đất nước hiện nay. Để đạt được mục tiêu
đó, Đảng cần có những quyết sách nhằm động viên và tổ chức mọi tầng lớp nhân
dân phát huy truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc, đưa đất nước vượt
qua thách thức.
- Với những thành quả cách mạng
Việt Nam đã đạt được, dưới sự lãnh đạo đầy bản lĩnh, trí tuệ của một chính Đảng
Cộng sản được lý luận Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi rọi, với sự quản
lý điều hành năng động, sáng tạo của Nhà nước cách mạng Việt Nam, với tài năng,
trí thông minh, đức tính cần cù, ý chí và khát vọng vươn lên mãnh liệt của nhân
dân ta, tiếp tục vận dụng bài học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
trong bối cảnh lịch sử mới, chúng ta có đầy đủ cơ sở để vững tin vào sự hiện
thực hóa mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
HỌC VIỆN ANND
Bộ
môn LLCT&KHXHNV
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc
|
Hà Nội, ngày 5 tháng 1 năm 2016
KẾ HOẠCH TỔ CHỨC XEMINA
(Dùng cho hệ đào tạo theo chương
trình tín chỉ)
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Bài “Chương VI: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Nhà nước
của dân, do dân, vì dân”
- Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Trang
- Thực hiện tại lớp: D47C
- Thời gian thực hiện: Thứ ngày
/1/2016
I. MỤC TIÊU,
YÊU CẦU
1. Mục tiêu
- Về kiến thức:
Thông qua việc xêmina sinh viên nắm
được nội dung cơ bản những vấn đề cơ bản về Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quá trình
Hồ Chí Minh tìm tòi và xác lập mô hình Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam; nội dung của
Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân; Sự thống nhất giữa tính chất
dân chủ nhân dân với bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước; Về xây dựng bộ
máy và cán bộ, viên chức Nhà nước; Giá trị lý luận và thực tiễn to lớn của tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước trong việc cải cách, xây dựng Nhà nước ta hiện
nay.Đồng thời nhận thức được vai trò, vị trí và yêu cầu của việc phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trong Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước hiện nay.
- Cñng cè kiÕn thøc ®· häc, hiểu rõ hơn, sâu rộng hơn nội dung của nội dung dân chủ, xây dựng Nhà nước
trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã học vµ n©ng cao nhËn thøc chÝnh trÞ, t tëng. Nắm được
những vấn đề trọng tâm, khắc phục những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu.
- T¨ng cêng mèi quan hÖ gi÷a ngêi d¹y vµ ngêi häc.
- Về kỹ năng:
Trang bị cho sinh viên những kỹ năng
trong việc vận dụng những lý thuyết đã học vào thực tiễn. Biết vận dụng linh
hoạt những kiến thức đã học vào từng sự việc cụ thể cũng như những vấn đề mới nảy
sinh trong giai đoạn hiện nay liên quan đến vấn đề ây dựng Nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Việc học tập và nghiên cứu bài giúp sinh viên nâng cao khả năng
thực hành, rèn luyện tư duy khoa học, đặc biệt là để góp phần giữ gìn và củng cố quyền làm chủ của nhân dân trong
Nhà nước. Từ đó rút ra ý nghĩa phương
pháp luận của việc phát huy
vai trò của nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Phát triển kỹ năng cộng tác, làm việc
nhóm; kỹ năng tư duy sáng tạo, khám phá tìm tòi; trau dồi, phát triển năng lực
đánh giá và tự đánh giá.
- Nâng cao tính chủ động, sáng tạo, tự
nghiên cứu và rèn luyện khả năng trình bày, bảo vệ ý kiến trước “đám đông” cho
sinh viên.
- Về thái độ:
+ Tạo cho sinh viên niềm yêu thích,
sự say mê học tập, nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Góp phần nâng cao ý thức xây dựng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
Củng cố ý thức xây dựng Nhà nước, chấp hành tốt mọi chính sách Pháp luật của
Nhà nước
+ Sinh viên có ý thức chấp hành
nghiêm chỉnh quy chế đào tạo, ý thức trách nhiệm với các hoạt động nhóm.
2. Yêu cầu
- Đối với giảng viên:
+ Giảng viên điều khiển sinh viên tham gia phát biểu ý kiến
về những nội dung câu hỏi và bài tập đã chuẩn bị trước.
+ Tổng hợp ý kiến của sinh viên, sau đó nhận xét đánh giá và
đưa ra kết luận cuối cùng về từng nội dung.
+ Trong khi sinh viên phát biểu ý kiến, giảng viên sẽ có câu
hỏi gợi ý để sinh viên trả lời.
- Đối với sinh viên:
+ Sinh viên phải chuẩn bị câu hỏi và
bài tập từ trước khi thảo luận tại lớp với đề cương chi tiết.
+ Khi giảng viên điều khiển thảo luận, sinh viên tự giác phát
biểu ý kiến, đồng thời lắng nghe ý kiến người khác, chủ động ghi chép những nội
dung cần thiết.
+ Sinh viên mạnh dạn nêu ra những ý kiến thắc mắc cần giải
đáp.
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP XEMINA
1. Nội dung
Tổ
chức cho sinh viên xemina 02 nội dung. Đây là vấn đề đang đặt ra hiện nay, đòi
hỏi sinh viên vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do
dân, vì dân để giải quyết.
2. Phương pháp
-
Sinh viên tự nghiên cứu vấn đề được giao, các nhóm phân tích, đánh giá và đưa
ra phương án giải quyết.
-
Trên cơ sở đó, sinh viên chia thành 2 nhóm, các nhóm họp thảo luận phương án
giải quyết vấn đề, các thành viên của nhóm đưa ra ý kiến. Từng nhóm sẽ cử đại
diện của mình trình bày và trả lời câu hỏi của các nhóm khác.
-
Giáo viên đánh giá thái độ làm việc của sinh viên, nhận xét các phương án mà
sinh viên đưa ra và kết luận hướng giải quyết phù hợp.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Chuẩn bị
-
Giáo viên chuẩn bị vấn đề và hướng dẫn giải quyết.
-
Sinh viên tự nghiên cứu vấn đề đã được giao và đưa ra phương án giải quyết.
-
Sinh viên từng nhóm lập kế hoạch giải quyết vấn đề, đưa ra những nhận định, yêu
cầu và phương hướng xử lý vấn đề.
2. Tiến hành
Xêmina
được tiến hành trong thời gian 02 tiết do giáo viên điều khiển, với các công
việc cụ thể như sau:
- Nêu
tình huống bằng clip chiếu trên máy chiếu đa năng.
-
Sinh viên các nhóm trình bày phần chuẩn bị, trả lời câu hỏi phản biện của các
nhóm khác.
-
Giáo viên nêu vấn đề cần tập trung thảo luận, nhận xét ưu, khuyết điểm của từng
nhóm và tổng hợp, đi đến thống nhất về hướng xử lý.
IV. THỜI GIAN THỰC HIỆN
Buổi
xemina được tiến hành vào ngày /1/2016
LÃNH ĐẠO BỘ MÔN
Đại tá, PGS, TS. Vũ Đình Oánh
|
NGƯỜI LẬP KẾ HOẠCH
Nguyễn Thị Thu Trang
|
CÂU HỎI XÊMINA VÀ
ĐÁP ÁN
(Dùng cho hệ đào
tạo theo tín chỉ)
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Bài “Chương VI: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Nhà nước
của dân, do dân, vì dân”
CÂU HỎI XÊMINA:
Câu 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân
Câu 2: Học tập và làm
theo Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân
ĐÁP ÁN XÊMINA
Câu 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một
hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ chế hoạt động, tổ
chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước; trong đó, quan niệm về
nhà nước pháp quyền là một tư tưởng nhất quán, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại
và có giá trị lâu bền. Trong di sản lý luận của mình, Hồ Chí Minh đã có lần
chính thức sử dụng thuật ngữ "chế độ pháp trị". Tiếp xúc với nền văn
minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, điều hành đời sống xã hội, Hồ Chí
Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính
chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại.
Sau
Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong sáu nhiệm vụ cấp
bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là: Chúng ta phải có một hiến pháp
dân chủ. Cùng với chủ trương xây dựng Hiến pháp, ngày 10-10-1945, Hồ Chí Minh
đã ký Sắc lệnh SL/47 cho phép sử dụng một số điều khoản của pháp luật cũ để
điều chỉnh các quan hệ dân sự. Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, pháp luật của
các chế độ xã hội có những giá trị nhân bản chung mà chúng ta có thể kế thừa,
phát triển. Ở đây, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận pháp luật trong chiều sâu văn hóa
của nó.
Sau
năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến pháp năm 1946
không còn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới
- Hiến pháp năm 1959. Trong tư duy Hồ Chí Minh, một khi điều kiện kinh tế - xã
hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật "gốc" - Hiến pháp, cũng
phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội đã phát
sinh và định hình.
Ngoài
hai bản Hiến pháp, từ năm 1945 đến 1969, Hồ Chí Minh còn chỉ đạo soạn thảo, ký
quyết định công bố 16 đạo luật và 1.300 văn bản dưới luật. Khối lượng văn bản
luật đó luôn thể hiện rõ việc đề cao tính nhân đạo và nhân văn, bảo đảm tính
hợp hiến, hợp pháp của nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ.
Hồ
Chí Minh luôn khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm
minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước ta cũng sử dụng pháp luật để quản
lý xã hội. Song pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của
giai cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân
chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Tuy
nhiên, pháp luật dân chủ ở Hồ Chí Minh cũng được xem xét trong các mối quan hệ
hết sức đặc trưng:
-
Trong quan niệm về thực chất của dân chủ: "Không nên hiểu lầm dân chủ. Khi
chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã quyết định rồi thì không được
bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi hành cho được, cho nhanh,
không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm chỉ những hành động tự do quá
trớn ấy" (2).
- Trong
việc xác định rõ giới hạn của các quyền tự do cá nhân, Người nói: Nhân dân ta
hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải
tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức
là phạm đến tự do của người khác, là phạm pháp. Không thể có tự do cho bọn việt
gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự do của nhân dân.
-
Trong việc xử lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân, pháp luật dân chủ
vừa thể hiện các quyền, lợi ích của công dân, nhưng cũng quy định rõ các nghĩa
vụ mà người dân phải thực hiện. Hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ là thuộc tính
hai mặt của một người dân làm chủ nhà nước.
- Muốn
pháp luật nghiêm minh, phát huy hiệu lực, cần có các điều kiện:
Trước
hết, pháp
luật đó phải đúng và phải đủ. Pháp luật đúng là pháp luật phản ánh trung thành
bản chất các quan hệ xã hội khách quan, tiếp cận đến chân lý, mà chân lý là tất
cả những gì phù hợp với lợi ích của nhân dân. Còn pháp luật đủ là phải có tính
đồng bộ, bao quát được các mặt, các loại quan hệ, các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Thứ
hai, pháp
luật phải đến được với dân, "đi vào giữa dân gian". Để pháp luật được
thực thi trong đời sống xã hội phải chú trọng giáo dục, tuyên truyền pháp luật
cho mọi đối tượng dân cư, làm cho họ biết, hiểu và thực hiện đúng. Trong điều
kiện dân trí còn thấp, học vấn hạn chế, văn hóa dân chủ chưa cao, việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật càng trở nên cần thiết.
Trong
quan niệm của Hồ Chí Minh, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là một "công
đoạn" trong toàn bộ quy trình xây dựng - thông qua, ban hành - thực hiện,
giám sát - sửa đổi, điều chỉnh pháp luật. Tại Hội nghị thảo luận Luật Hôn nhân
và Gia đình, vấn đề này đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: "công bố đạo luật này
chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài
mới thực hiện được tốt"(3). Muốn dân hiểu, dân nhớ để làm
theo, trong tuyên truyền phải biết cách diễn đạt đơn giản, ngắn gọn, nhưng
tuyệt đối chính xác, phù hợp với đặc điểm tâm lý, tính cách, văn hóa của các
đối tượng dân cư từng khu vực, từng miền trên đất nước.
Thứ
ba, cán bộ
trực tiếp thực thi luật pháp phải thật sự công tâm và nghiêm minh. Hồ Chí Minh
yêu cầu cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ "gương mẫu chấp hành pháp luật của
Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham
gia". Người nhiều lần phê phán những cán bộ, đảng viên không chấp hành
pháp luật của Nhà nước, cá nhân chủ nghĩa sinh ra tự do chủ nghĩa, không tôn
trọng pháp luật và thể lệ nhà nước, làm gương xấu cho quần chúng nhân dân.
Trong
việc giữ vững tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật, cán bộ làm công tác
tư pháp có vai trò quan trọng. Họ chính là người trực tiếp thực thi luật pháp,
đại diện cụ thể cho "cán cân công lý". Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu ở
họ phải có phẩm chất đạo đức cần thiết: Trong công tác xử án phải công bằng,
liêm khiết, trong sạch như thế cũng chưa đủ vì không thể chỉ hạn chế hoạt động
của mình trong khung tòa án mà còn phải gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để
giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng, trong sạch.
Đối
với những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật hoặc xử lý không
đúng, không nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Có cán
bộ, đảng viên lợi dụng quyền thế của Đảng và Nhà nước làm những việc trái với
chính sách và pháp luật, xâm phạm đến lợi ích vật chất và quyền tự do dân chủ
của nhân dân, nhưng cũng chưa bị xử lý kịp thời..., như vậy là kỷ luật chưa
nghiêm. Người yêu cầu kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm pháp luật, xâm phạm
quyền lợi của công dân, làm cho nhân dân bất bình, oan ức.
Với
Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo
vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ
dừng lại ở các quyền con người được ghi trong các văn bản pháp luật mà còn thấm
đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân,
thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của
dân tộc Việt Nam. Vì thế, pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt,
pháp quyền nhân nghĩa - một thứ nhân nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm
tính dân tộc và dân chủ sâu sắc.
- Sự
thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở
quan niệm xử lý các hành vi phạm pháp, nguyên tắc "có lý","có
tình" chi phối mọi hành vi ứng xử của con người, tôn trọng cái lý, đề cao
cái tình, tùy từng trường hợp, tình huống cụ thể mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt
này hay mặt khác. Xử lý hành vi vi phạm pháp luật phải kịp thời, nghiêm minh.
Pháp luật không loại trừ một ai, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác,
khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái thiện vốn có trong mỗi con người,
chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe. Trong việc thực thi pháp luật cũng phải
bảo đảm tính hài hòa giữa các mặt tưởng chừng như đối lập nhau. Phương châm của
Hồ Chí Minh là: không xử phạt là không đúng; song, cái gì cũng trừng phạt cả
cũng là không đúng, nên phải tránh lạm dụng pháp luật. Tính nghiêm minh và hiệu
lực của luật pháp không chỉ phụ thuộc vào sự đúng đắn của pháp luật mà trong
quan hệ thực tế còn phụ thuộc vào cả cái tâm của chính người đại diện cho pháp
luật.
Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu các giá trị tư tưởng hiện đại của loài
người, trước nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Quan điểm về nhà nước
pháp quyền của Đảng là một bộ phận hợp thành tổng thể lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Nhận
thức của Đảng về nhà nước pháp quyền là một quá trình. Trước những năm 90 của
thế kỷ XX, trên bình diện lý luận, chúng ta chỉ dùng các khái niệm "Nhà
nước chuyên chính vô sản", "Nhà nước xã hội chủ nghĩa". Đến năm
1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII, khái
niệm "nhà nước pháp quyền" đã được nêu lên. Từ đó, Đảng ta nhận thức
rất rõ rằng, nhà nước pháp quyền là một thành tựu vĩ đại của tư tưởng nhân
loại; xét về bản chất, không chỉ có một loại nhà nước pháp quyền duy nhất; mà
dựa trên cơ sở kinh tế - xã hội, bản chất chế độ xã hội khác nhau, vẫn tồn tại
Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhận
thức này ngày càng thống nhất trong toàn Đảng và được khẳng định rõ tại Đại hội
IX của Đảng (4-2001): Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có
nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Quan điểm này đã được thể hiện trong
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992 và cụ thể hóa trong Điều 2: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trong
Dự thảo Đề cương các Văn kiện trình Đại hội X của Đảng, xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được khẳng định thành một vấn đề có tính
nguyên tắc với các nội dung: nghiên cứu, thể chế hóa và xây dựng cơ chế vận
hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân; nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; xây
dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp, đồng thời định rõ cơ chế, cách thức bảo đảm tính
tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực hiện nguyên tắc này, trên thực
tế là tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền trong
những điều kiện và yêu cầu phát triển mới của đất nước. Cụ thể là:
- Cần
phải nhận thức đúng đắn vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, bảo
đảm để pháp luật trở thành phương tiện cho người dân thực hiện quyền làm chủ
của mình, sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật.
- Xây
dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng tốt và kịp thời nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
-
Kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan làm luật, xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp đủ phẩm chất và năng lực.
- Đẩy
mạnh công tác giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, coi trọng tuyên truyền,
hướng dẫn, giải thích, hỗ trợ tư vấn pháp luật, nhất là ở vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa; giáo dục pháp luật phải gắn liền với giáo dục đạo đức cách mạng.
-
Pháp luật phải được thực thi nghiêm chỉnh từ cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức nhà nước đến các tổ chức xã hội và công dân; mọi hành động vi phạm pháp
luật phải được xử lý đúng, kịp thời, không để sót người, sót tội, không gây oan
ức cho người vô tội...
-
Tăng cường vai trò và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, nhất là nâng cao tầm trí tuệ và tư duy
lý luận của Đảng trong chỉ đạo định hướng xây dựng hệ thống pháp luật.
Câu 2: Học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phát huy quyền làm
chủ của nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính
yêu của dân tộc ta, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người thầy vĩ đại về
công tác dân vận, rất quan tâm việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng XHCN.
- Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng
định: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ". Nhân dân theo quan niệm của Hồ Chí Minh là mọi người Việt Nam
"con rồng cháu tiên" không phân biệt già trẻ, gái, trai giàu nghèo
trong đó công nhân và nông dân chiếm đại đa số. Nhân dân có quyền và có trách
nhiệm, nghĩa vụ làm chủ. Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ
bản thân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Nhân dân có quyền làm chủ thì phải
có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân và "công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân".
- Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn rất
mạnh ý nghĩa, giá trị, mục tiêu của việc bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động. Người coi dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân "có
phát huy cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách
mạng tiến lên”; có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến;
làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của
mình, dám nói, dám làm.
- Giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân đều có quyền và trách nhiệm làm
chủ. Đối với công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Muốn thực hiện đúng vai
trò làm chủ, giai cấp công nhân phải quản lý tốt kinh tế, quản lý tốt xí
nghiệp, làm cho năng suất lao động không ngừng nâng cao, của cải xã hội ngày
càng nhiều với chất lượng tốt, giá thành hạ. Đối với nông dân, lực lượng đông
đảo nhất của dân tộc, chiếm gần 80% số dân, Người khẳng định: Muốn nông dân có
lực lượng dồi dào thì phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở.
Như vậy việc thực hành dân chủ phải gắn với bảo đảm lợi ích vật chất và văn hóa
của người lao động, lực lượng quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Suốt đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh "chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc,
là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Đối với trí
thức, Người chỉ rõ: Lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc, trong củng cố hoàn thành dân chủ mới để tiến đến CNXH.
Đối với thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Ngày nay thanh niên là
công dân của nước Việt Nam độc lập, tự do..., là người chủ tương lai của nước
mình. Người khuyên thanh niên không nên đòi hỏi ở nước nhà mà chỉ nên hỏi rằng
mình đã làm gì cho nước nhà. Và nêu rõ thanh niên có quyền học tập, vui chơi,
giải trí, v.v... Đối với phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng "giải phóng
người đàn bà, đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản trong
người đàn ông". Đối với các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt
Nam, Người yêu cầu: Làm cho các dân tộc anh em dần dần tự quản lấy công việc
của mình, để mau chóng phát triển kinh tế và văn hóa của mình, để thực hiện dân
chủ về mọi mặt.
- Xây dựng, củng cố và hoàn thiện
Nhà nước của dân, do dân, vì dân là một điều kiện rất quan trọng để quyền làm
chủ của dân được thực hiện một cách có hiệu quả. Chính quyền là do "dân cử
ra". Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là “phục vụ nhân dân”, là "phát
triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân", "đưa mọi
vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết". Về trách nhiệm của
dân đối với chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhân dân có quyền đôn
đốc và phê bình chính phủ”.
Muốn bảo đảm và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, nhất thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để làm cho
dân chủ có định hướng đúng- dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ thật sự, dân chủ
gắn liền với kỷ luật kỷ cương, lấy Hiến pháp và pháp luật làm khung pháp lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Đảng ta đấu tranh để làm gì? Là muốn cho tất cả
mọi người được ăn no, được mặc ấm, được tự do. Người yêu cầu, "cán bộ,
đảng viên càng phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần
chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải kính yêu nhân dân. Chúng ta phải
yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Phải thật sự tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân". Người chỉ rõ: "Phải mở rộng dân chủ; phải mở rộng
phê bình và tự phê bình, nhất là phê bình từ duới lên". Người khẳng định
chỉ có Đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật sự dân chủ mới dám mạnh
dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa.
Các đoàn thể nhân dân là “tổ chức
của dân, phấn đấu cho dân , bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết với nhân
dân, với Chính phủ, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, có vai trò rất quan
trọng trong việc bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ: "Công đoàn phải bảo vệ cho công nhân có quyền thật sự trong
xí nghiệp"; làm sao để bà con nông dân hiểu mình là người chủ tập thể, làm
chủ hợp tác xã, làm chủ Nhà nước. Người gợi ý: “Khi ai có điều gì oan ức, thì
có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất cả công
dân Việt Nam”.
Về giải pháp thực hiện và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chúng ta phải ra
sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực
hiện dân chủ thực sự". "Chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta nhằm
thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân". Người khẳng định: Thực hành
dân chủ để làm cho dân ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự do.
Dưới ánh sáng Tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát huy truyền thống làm chủ của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã có những
chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc
phòng. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) "Về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh" nêu rõ: "Không ngừng hoàn thiện các cơ chế dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở,
cụ thể hóa để thực hiện phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra
trong tất cả các loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở thuộc các cấp, các ngành, kể
cả trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Khắc
phục mọi biểu hiện vi phạm dân chủ, coi nhẹ dân chủ hoặc dân chủ hình thức.
Phát huy dân chủ đồng thời đề cao pháp luật, kỷ luật, kỷ cương trong toàn xã
hội". Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) cũng
nêu rất rõ nội dung cơ bản về quyền và nghĩa vụ làm chủ của công dân.
Để
tiếp tục bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, theo chúng tôi cần thực thi có hiệu quả một số giải
pháp sau:
Một
là,
tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cả hệ thống chính trị quán
triệt sâu sắc Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát huy quyền làm chủ nhân dân, coi việc mở rộng dân chủ
XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, đồng thời là động
lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới.
Hai
là,
sau hơn 5 năm triển khai, thực hiện, Quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở đã từng
bước đi vào cuộc sống hàng ngày của các tầng lớp nhân dân góp phần phát huy nội
lực, quyền làm chủ của dân, góp phần từng bước cải thiện đời sống vật chất và
văn hóa của cư dân trên địa bàn xã, phường và cơ quan. doanh nghiệp; góp phần
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt
trận, các đoàn thể nhân dân theo hướng dân chủ hơn, sát dân hơn, lấy việc phục
vụ nhân dân là thước đo phẩm chất năng lực của cán bộ, đảng viên. Tuy vậy, việc
thực thi QCDC cơ sở mới chỉ là bước đầu, chưa vững chắc, chưa rộng khắp, chưa
đồng đều giữa các địa phương, cơ sở. Mới có khoảng 20% số cơ sở xã, phường, thị
trấn thực hiện tốt, có hiệu quả QCDC. So với xã, phường, thị trấn, việc thực
hiện QCDC ở cơ quan và doanh nghiệp đạt mức thấp hơn cả chiều sâu và chiều
rộng. Vì vậy, cần sớm tổ chức sơ kết đánh giá đúng những mặt làm được và chưa
làm được, tìm ra nguyên nhân và giải pháp để tiếp tục thực hiện có chất lượng
và hiệu quả QCDC ở cơ sở.
Ba
là,
Nhà nước cần tiếp tục thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân thành các văn bản
pháp luật. Thường xuyên kiểm tra việc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, của các ngành, các cấp chính quyền. Mặt trận, các đoàn thể nhân dân
phải là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân theo luật pháp đã
quy định, cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
HỌC
VIỆN ANND
Bộ môn
LLCT&KHXHNV
|
CỘNG HÒA
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc
|
Hà Nội, ngày 5 tháng 1 năm 2016
KẾ HOẠCH TỔ CHỨC XEMINA
(Dùng
cho hệ đào tạo theo tín chỉ)
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Bài “Chương VII: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới”
- Giáo viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Trang
- Thực hiện tại lớp: D47C
- Thời gian thực hiện:Thứ ngày
/1/2016
I. MỤC TIÊU,
YÊU CẦU
1. Mục tiêu
- Về kiến thức:
Thông qua việc xêmina sinh viên nắm
được nội dung cơ bản những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa,
đạo đức và xây dựng con người mới. Đồng thời nhận thức được vai trò, vị trí và
yêu cầu của việc vận dụng tư tưởng của Người trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước hiện nay.
- Cñng cè kiÕn thøc ®· häc, hiểu rõ hơn, sâu rộng hơn nội dung của nội dung văn hóa, đạo đức và xây dựng
con người mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã học vµ n©ng cao nhËn thøc chÝnh trÞ, t tëng. Nắm được
những vấn đề trọng tâm, khắc phục những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu.
- Nhận thức được những cống hiến của Hồ Chí Minh trong lĩnh
vực văn hoá từ đó thấy rõ Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hoá kiệt xuất.
- T¨ng cêng mèi quan hÖ gi÷a ngêi d¹y vµ ngêi häc.
- Về kỹ năng:
Trang bị cho sinh viên những kỹ năng
trong việc vận dụng những lý thuyết đã học vào thực tiễn. Biết vận dụng linh
hoạt những kiến thức đã học vào từng sự việc cụ thể cũng như những vấn đề mới
nảy sinh trong giai đoạn hiện nay liên quan đến vấn đề văn hóa, đạo đức và xây
dựng con người mới. Việc học tập và nghiên cứu bài giúp sinh viên nâng cao khả
năng thực hành, rèn luyện tư duy khoa học, đặc biệt là để vận dụng tư tưởng của Người trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng đạo đức cách mạng cần, kiệm,
liêm, chính. Từ đó rút ra ý nghĩa phương
pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây
dựng con người mới trong giai đoạn hiện nay.
Phát triển kỹ năng cộng tác, làm việc
nhóm; kỹ năng tư duy sáng tạo, khám phá tìm tòi; trau dồi, phát triển năng lực
đánh giá và tự đánh giá.
- Nâng cao tính chủ động, sáng tạo, tự
nghiên cứu và rèn luyện khả năng trình bày, bảo vệ ý kiến trước “đám đông” cho
sinh viên.
- Về thái độ:
+ Tạo cho sinh viên niềm yêu thích,
sự say mê học tập, nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Góp phần nâng cao ý thức xây dựng và bảo vệ những giá trị văn hóa tốt đẹp
của dân tộc, đạo đức của người cách mạng.
+ Sinh viên có ý thức chấp hành nghiêm
chỉnh quy chế đào tạo, ý thức trách nhiệm với các hoạt động nhóm.
2. Yêu cầu
- Đối với giảng viên:
+ Giảng viên điều khiển sinh viên tham gia phát biểu ý kiến
về những nội dung câu hỏi và bài tập đã chuẩn bị trước.
+ Tổng hợp ý kiến của sinh viên, sau đó nhận xét đánh giá và
đưa ra kết luận cuối cùng về từng nội dung.
+ Trong khi sinh viên phát biểu ý kiến sẽ có câu hỏi gợi ý để
sinh viên trả lời.
- Đối với sinh viên:
+ Sinh viên phải chuẩn bị câu hỏi và
bài tập từ trước khi thảo luận tại lớp với đề cương chi tiết.
+ Khi giảng viên điều khiển thảo luận, sinh viên tự giác phát
biểu ý kiến, đồng thời lắng nghe ý kiến người khác, chủ động ghi chép những nội
dung cần thiết.
+ Sinh viên mạnh dạn nêu ra những ý kiến thắc mắc cần giải
đáp.
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP XEMINA
1. Nội dung
Tổ
chức cho sinh viên xemina 02 nội dung. Đây là vấn đề đang đặt ra hiện nay, đòi
hỏi sinh viên vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con
người mới để giải quyết.
2. Phương pháp
-
Sinh viên tự nghiên cứu vấn đề được giao, các nhóm phân tích, đánh giá và đưa
ra phương án giải quyết.
-
Trên cơ sở đó, sinh viên chia thành 2 nhóm, các nhóm họp thảo luận phương án
giải quyết vấn đề, các thành viên của nhóm đưa ra ý kiến. Từng nhóm sẽ cử đại
diện của mình trình bày và trả lời câu hỏi của các nhóm khác.
-
Giáo viên đánh giá thái độ làm việc của sinh viên, nhận xét các phương án mà
sinh viên đưa ra và kết luận hướng giải quyết phù hợp.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Chuẩn bị
-
Giáo viên chuẩn bị vấn đề và hướng dẫn giải quyết.
-
Sinh viên tự nghiên cứu vấn đề đã được giao và đưa ra phương án giải quyết.
-
Sinh viên từng nhóm lập kế hoạch giải quyết vấn đề, đưa ra những nhận định, yêu
cầu và phương hướng xử lý vấn đề.
2. Tiến hành
Xêmina
được tiến hành trong thời gian 02 tiết do giáo viên điều khiển, với các công
việc cụ thể như sau:
- Nêu
tình huống bằng clip chiếu trên máy chiếu đa năng.
-
Sinh viên các nhóm trình bày phần chuẩn bị, trả lời câu hỏi phản biện của các
nhóm khác.
-
Giáo viên nêu vấn đề cần tập trung thảo luận, nhận xét ưu, khuyết điểm của từng
nhóm và tổng hợp, đi đến thống nhất về hướng xử lý.
IV. THỜI GIAN THỰC HIỆN
Buổi
xemina được tiến hành vào ngày /1/2016
LÃNH ĐẠO BỘ MÔN
Đại tá, PGS, TS. Vũ Đình Oánh
|
NGƯỜI LẬP KẾ HOẠCH
Nguyễn Thị Thu Trang
|
CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN XÊMINA
(Dùng cho hệ đào tạo theo tín chỉ)
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Bài “Chương VII: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới”
CÂU
HỎI XÊMINA:
Câu
1:
Bác Hồ nói: "Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do đảng viên đều
tốt"
Câu
2: Tư tưởng nhân văn cao cả trong di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại
ĐÁP ÁN XÊMINA
Câu
1:
Bác Hồ nói: "Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do đảng viên đều
tốt"
- Một trong những nét đặc sắc nổi bật trong tư tưởng
Hồ Chí Minh là vấn đề đạo đức của người cách mạng, của cán bộ, đảng viên. Sinh
thời, Bác Hồ không chỉ luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải ra sức tu dưỡng,
rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng mà chính bản thân Người còn là tấm gương
sáng ngời về đạo đức cách mạng để chúng ta học tập và làm theo.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng,
người cán bộ, đảng viên cần phải có đạo đức cách mạng, vì cán bộ, đảng viên có
vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng. Đảng viên là tế bào của
Đảng. Sức mạnh của Đảng là do sức mạnh của đội ngũ đảng viên tạo nên. Bác Hồ
khẳng định: "Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ
tốt. Chi bộ tốt là do đảng viên đều tốt". Do đó, theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phải đặc biệt chú trọng việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên.
Trong bản Di chúc để lại cho toàn
Đảng, toàn dân trước lúc đi xa, trước hết Người nói về Đảng và vấn đề đạo đức
đã được đặc biệt nhấn mạnh: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng; thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Phải gìn giữ Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra
những nguyên tắc cơ bản để định hướng cho việc tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao
đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Một là, lời nói phải đi đôi với việc
làm, phải nêu gương về đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ,
đảng viên, việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân,
ta phải hết sức tránh. Người thường phê phán loại cán bộ, đảng viên nhút nhát,
kém cỏi, nói không dám nói, làm không dám làm; cái gì cũng chờ cấp trên bảo sao
làm vậy. Loại cán bộ ấy là thụ động, thiếu sáng tạo và trở nên vô dụng. Và tốt
nhất là miệng nói tay làm, làm gương cho người khác bắt chước... Nếu miệng thì
tuyên tuyền bảo người ta siêng năng mà mình thì tự ăn trưa, ngủ trễ; bảo người
ta tiết kiệm, mà mình thì xa xỉ, lung tung thì tuyên truyền một trăm năm cũng
vô dụng. Theo Bác Hồ, đối với người phương Đông, nhất là đối với người Việt Nam
giàu tình cảm, một tấm gương sống còn có giá hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền. Vì vậy, cần phải nêu những tấm gương sáng về đạo đức cho mọi người học
tập noi theo. Hai là, xây phải đi đôi với chống.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
"Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần
tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó
là thái độ của người cách mạng". Tuy nhiên, xây dựng phải luôn đi đôi với
chống, chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức; theo quan điểm của Người là
chống cũng nhằm mục đích xây. Đây là một quá trình đấu tranh gay go, phức tạp
không phải là ngày một, ngày hai có thể làm được. Biện pháp để xây dựng và
chống có hiệu quả, theo Bác Hồ là thực hiện tự phê bình và phê bình ở chi bộ
một cách thành khẩn, trung thực, thẳng thắn và dũng cảm. Người cho rằng muốn
thành người cán bộ, đảng viên tốt phải có tinh thần tự phê bình và phê bình
cao. Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta
không sợ khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không kiên quyết sửa nó đi. "Một Đảng
mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận
khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có rồi tìm kiếm mọi cách
để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn,
chân chính". Ba là, phải rèn luyện, tu dưỡng và nâng cao đạo đức cách mạng
suốt đời mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mỗi người cán bộ, đảng viên, phải
thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hằng ngày; đây là công
việc phải làm kiên trì, bền bỉ suốt đời.
- Theo Người: Đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà
phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong. Việc rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên phải được thông qua hoạt động thực tiễn sinh hoạt, học tập, lao động,
chiến đấu. Khi cách mạng thuận lợi, cũng như lúc cách mạng gặp khó khăn thử
thách, cán bộ, đảng viên đều phải rèn luyện để nâng cao đạo đức cách mạng. Thực
tế cuộc sống đã cho thấy khi mới vào Đảng, khi mới được bầu, mới được đề bạt
vào các chức danh nọ, chức danh kia, hầu như ai cũng là người tốt; nhưng có một
số ít người do không rèn luyện thường xuyên đã bị danh lợi uy quyền, tiền tài,
sắc đẹp... làm cho gục ngã, thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống. Cho nên
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên phải được thực
hiện trong suốt cả cuộc đời.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để cho
mọi đảng viên đều có phẩm chất, đạo đức tốt; chi bộ luôn luôn trong sạch vững
mạnh thì phải thường xuyên làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Điều đó
xuất phát từ vai trò của Đảng, bởi "Đảng ta là một Đảng cầm quyền".
Nghĩa là Đảng trực tiếp lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ. Vì
vậy, chỉnh đốn Đảng một mặt khẳng định sức mạnh, quyền lực to lớn của Đảng
trong cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới đối với các lĩnh vực đời sống xã hội.
Mặt khác, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện thoái hóa, biến chất của
một bộ phận cán bộ, đảng viên không chịu tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng nên đã vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đi ngược lại lợi ích,
nguyện vọng của nhân dân, dẫn tới lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi.
Chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh không ngoài mục đích nào khác là nhằm
cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Câu
2: Tư tưởng nhân văn cao cả trong di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đúc kết những giá trị tư tưởng lớn lao và định hướng đúng đắn con đường cách
mạng Việt Nam phải đi và phải đến. Sức sống lớn lao của Di chúc, ánh sáng kỳ
diệu tỏa ra trong toàn bộ Di chúc đó là những tư tưởng nhân văn cách mạng ngời
sáng và đầy giá trị nhân bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nói đến tư tưởng nhân văn, trước
hết là nói đến con người, tình yêu thương con người. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định toàn bộ những việc lớn của xã hội, của cách mạng đều gắn
với con người, cho nên Người viết rằng: "Đầu tiên là công việc đối với con
người". Đây là sự tổng kết quan trọng về chủ nghĩa nhân văn mà Hồ Chí Minh
đã đúc kết trong quá trình hoạt động cách mạng của mình.
Suốt cuộc đời đi tìm đường cứu
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công việc đối với con người là mục tiêu quan
trọng, lớn lao và cao cả của cả đời mình. Không phải đến Di chúc, Người mới đặt
vấn đề công việc đối với con người. Ngay từ khi đi tìm đường cứu nước, Người đã
cho rằng mỗi xã hội đều có các công việc đối với con người. Đó là công việc tạo
ra một kiểu người cho xã hội đó. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các xã hội có những
kiểu người đại diện cho nó. Còn xã hội mới phải có kiểu người cách mạng đại
diện cho nó. Kiểu người cách mạng trong tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là bước phát triển mới của sự tiến bộ xã hội. Đó là kiểu người xã hội chủ
nghĩa.
Vấn đề con người trong tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh được thể hiện trong Di chúc đó là tình yêu thương đối với tất
cả mọi tầng lớp người trong xã hội, từ các cháu thiếu nhi, các thanh niên, phụ
nữ đến các cụ già. Sinh thời, tình yêu thương bao la và rộng lớn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dẫn Người đến lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội và tập trung là giải phóng con người. Giải phóng dân tộc để
giải phóng con người thoát khỏi mọi sự đè nén, áp bức của chủ nghĩa thực dân,
giải phóng dân tộc để cho các tộc người đều bình đẳng, giải phóng giai cấp để
giải phóng các hạn chế về sự bất bình đẳng giai cấp, làm cho con người với con
người trở thành đồng chí và anh em. Giải phóng xã hội là nấc thang giải phóng
con người cao nhất, là nấc thang khắc phục toàn diện các hạn chế của con người,
phát triển con người về mọi mặt, mang các giá trị chân chính của con người trả
lại cho con người.
Tình thương bao la của Chủ tịch Hồ
Chí Minh không chỉ đối với các anh hùng, liệt sĩ, cán bộ, dân quân, du kích,
thanh niên xung phong, đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ, mà ngay
cả đối với các nạn nhân chiến tranh, đối vối những người lầm đường lạc lối,
những người thiếu tu dưỡng… Người cũng tìm cách phát huy những ưu điểm và hạn
chế những nhược điểm của họ. Người căn dặn phải giúp họ trở thành những người
lao động lương thiện.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh thể
hiện trong Di chúc là chủ nghĩa nhân văn cách mạng ngời sáng lý tưởng cộng sản.
Người không thương con người như sự ban ơn, Người tìm cách giúp đỡ mọi người
làm cho cái xấu phải mất dần đi và cái tốt, cái đẹp phải được nảy nở như hoa
mùa xuân.
Tính chất nhân văn cao cả được thể
hiện trong Di chúc đó là lòng tin tưởng tuyệt đối của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào
sức mạnh của nhân dân. Người không chỉ nêu lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân lao
động ở miền xuôi, miền núi, mà Người còn tin tưởng rằng nhân dân sẽ là một lực
lượng khổng lồ, sức mạnh vô địch chiến đấu và nhất định chiến thắng mọi hư hỏng
trong xã hội để xây dựng những cái gì tươi sáng nhất, văn minh và văn hoá nhất.
Biểu hiện trình độ đặc sắc của chủ
nghĩa nhân văn trong Di chúc là tư tưởng bao dung Hồ Chí Minh. Lòng yêu nước,
thương dân của Người thể hiện sâu sắc trong sự quan tâm đến cả lợi ích của cá
nhân và lợi ích của cộng đồng. Sinh thời, Người chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng
Người rất tôn trọng lợi ích, sở thích cá nhân. Người viết: "Đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân".
Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống của bản thân và gia
đình mình". Người không chỉ quan tâm tới lợi ích cá nhân của mỗi con
người. Người còn khuyên mọi người hãy khoan hồng đại độ cho những người lầm
đường lạc lối. Trong Di chúc, Người đã quan tâm sâu sắc đến từng con người ở
mọi tầng lớp và Người cũng dặn dò xã hội hãy cứu vớt lấy những kẻ lười biếng,
trộm cắp để họ hoàn lương.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân biệt
bọn thực dân cướp nước ta với nhân dân lương thiện ở các nước đó, phân biệt bọn
hiếu chiến Mỹ với nhân dân Mỹ yêu tự do và hoà bình. Người không hề đánh đồng
bọn xâm lược Mỹ với nhân dân Mỹ. Và chính Người đã coi bạn bè năm châu tận tình
ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân ta, trong đó có cả nhân dân yêu
chuộng hoà bình Mỹ.
Chủ nghĩa bao dung trong tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến hạnh phúc của con người, phân biệt
và đối thoại các giá trị giữa con người và con người, Người còn mở rộng tấm
lòng cao cả đến cả tự nhiên. Trong Di chúc, Người không quên dặn dò các thế hệ
sau này phải bảo vệ hệ sinh thái cho đa dạng, cân bằng. Người đề xuất ý tưởng trồng
cây và sự trong sạch của môi trường sống. Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
đã đặt vấn đề cần giáo dục đạo đức sinh thái cho nhân dân.
Có thể nói bao dung trong tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh gắn chặt chẽ với các vấn đề đạo đức mới, mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã gọi là đạo đức vĩ đại. Vì đạo đức này không chỉ quan tâm đến con người,
thương người, tin tưởng ở con người, tự giác phục vụ những lợi ích của con
người, mà còn có cả tình cảm bao la quan tâm đến tự nhiên, bảo vệ mối quan hệ
hài hoà giữa con người với tự nhiên.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh
không phải là một chủ nghĩa nhân văn không có tính chiến đấu. ở Người, khoan
dung là đối thoại các giá trị. Người kiên quyết chống lại mọi cái gì trái với
lẽ phải. Vì thế, tính nhân văn trong Di chúc gắn liền tình thương bao la với lẽ
phải chân chính.
Cuối cùng, bao trùm nhất, quan
trọng nhất trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện trong Di chúc đó
là sự quan tâm đến người cộng sản, đến Đảng. Đây thực sự là nét độc đáo trong
tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Tháng 5 - 1968, khi soạn
thảo Di chúc, Người không chỉ viết: Đầu tiên là công việc đối với con người, mà
Người còn viết rằng: Theo ý tôi việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng.
Quan tâm đến Đảng đầu tiên, hướng đến việc hoàn thiện công việc lãnh đạo của
Đảng, Hồ Chí Minh đặc biệt nêu lên ý nghĩa nhân văn trong việc Đảng vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Có lẽ trong lịch
sử chủ nghĩa nhân văn, đây là tư tưởng nhân văn cộng sản rất mới mẻ. Trong tư
tưởng nhân văn cộng sản Hồ Chí Minh, quan tâm đầu tiên đến nhân cách người sộng
sản, bởi vì nhân cách này có quan hệ mật thiết tới nội dung mới của chủ nghĩa
nhân văn. Chủ nghĩa nhân văn kiểu mới gắn bó mật thiết với Đảng Cộng sản và
người cộng sản.
Xã hội mới theo hướng lấy con người
làm trung tâm ở nước ta trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Lý tưởng của Đảng Cộng sản là chống áp bức, bóc lột, mang những
giá trị chân chính của con người trả lại cho con người. Bản chất của xã hội lấy
con người làm trung tâm hoà quyện và thống nhất với mục tiêu lý tưởng của Đảng.
Với lý tưởng tiên tiến và đạo đức cao đẹp, nhân cách người cộng sản phải trở
thành biểu tượng trung tâm của xã hội mới. Đó là những con người đã biết đặt lợi
ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết và trước hết. Đó là những con người
thắng không kiêu, bại không nản, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trung
thực và dũng cảm. Các phẩm chất này đã trở thành nội dung cơ bản của chủ nghĩa
nhân văn cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa nhân văn kiểu mới phải gắn liền với văn hoá Đảng. Đó là biểu hiện một
trình độ nhân văn cao của nền văn hoá mới Việt Nam. ở đó "chính sách của
Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân
đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân
dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi"
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
căn dặn: "Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân"
Là những người lãnh đạo nhân dân
xây dựng xã hội lấy con người làm trung tâm, nếu người lãnh đạo không trong
sạch, không có năng lực, không có phương pháp tiên tiến, không khoan dung và độ
lượng chắc chắn không thể ngang tầm với tình cảm và trí tuệ của nhân dân. Kinh
nghiệm lịch sử cho thấy, nếu người lãnh đạo sai lầm về đường lối, hẹp hòi, yếu
kém về đạo đức, về chuyên môn sẽ đưa đến kém hiệu quả trong công việc, thiếu
dân chủ, chuyên quyền độc đoán, thiếu tính nhân văn trong quá trình xây dựng xã
hội mới.
Là người đầy tớ trung thành của
nhân dân trong một xã hội nhân đạo thì những người lãnh đạo và mọi công dân đều
cần thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ lao động của mình. Trước đây Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói rằng: "Dân chủ là dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ
trưởng, Thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì ? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho
nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng". Từ Chủ tịch nước đến mỗi
công dân bình thường trong xã hội lấy con người làm trung tâm, ai cũng có nghĩa
vụ như nhau. Mọi biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, trù dập người này, nói xấu
người khác, nặc danh, vu oan, phá hoại đều phản lại các giá trị nhân văn chân
chính.
Không ít người có chức, có quyền
được dân bầu lên lầm tưởng rằng mình có quyền đứng trên các giá trị văn hoá xã
hội, hoặc chính mình là đại biểu của tinh hoa văn hoá xã hội. Những sự
"hiểu lầm" ấu trĩ đó sẽ làm tổn hại đến các giá trị nhân văn lâu bền
của xã hội ta. Ngay từ những ngày đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám, để xây dựng
xã hội mới Việt Nam theo hướng nhân văn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo nhiều
người có chức, có quyền rơi vào tình trạng vô văn hoá bởi vì họ đã đặt quyền
lực của mình trên pháp luật. Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện, và
làng viết vào tháng 10 năm 1945 có đoạn: "… có nhiều người phạm những lầm
lỗi rất nặng nề. Những lầm lỗi chính là:
1 - Trái phép… có lúc vì tư thù tư
oán mà bắt bớ và tịch thu làm cho dân oán thán.
2 - Cậy thế - Cậy thế mình ở trong
ban này, ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư
luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ
không phải để cậy thế với dân.
3 - Hủ hoá - Ăn muốn cho ngon, mặc
muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử hỏi tiền bạc
ấy ở đâu ra ?
Thậm chí lấy của công dùng vào việc
tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên, cho đến
các cô, các cậu ủy viên cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai
phải chịu ?
4 - Tư túng - Kéo bè, kéo cánh, bà
con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này, chức nọ. Người có
tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là việc
công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai…"
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một xã
hội nhân đạo thì mọi hoạt động lao động phải gắn với các lợi ích, và lợi ích cá
nhân phải gắn với lợi ích của cộng đồng. Lợi ích của cộng đồng là mặt tồn tại
khách quan có cơ sở từ hình thái kinh tế - xã hội. Sự thoả mãn các nhu cầu của
cá nhân đều phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội. Để thoả mãn được lợi ích cá
nhân, cá nhân phải tham gia lợi ích chung. Người đã căn dặn Đảng ta sau khi
chiến thắng đế quốc Mỹ phải tạo điều kiện thoả mãn những nhu cầu chính đáng của
người lao động.
Cuối Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho
thanh niên và nhi đồng. Tình thương yêu bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến
thành sức mạnh của các thế hệ người Việt Nam phấn đấu cho lý tưởng nhân văn cao
cả mà Người đã đề xướng.
. Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 160
. Đảng cộng sản
Việt Nam: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 40 – 41
Comments[ 0 ]
Post a Comment