- Trang Chủ
- Đề Cương Bài Giảng
- Giáo Án
- Bài Tập
- Tài Liệu Tham Khảo
- Tư Liệu Tham Khảo
- Truyện Kể Về Bác
- Hoạt Động Ngoại Khóa
Chào Mừng Mọi Người Đã Đến Blog của tôi
HỌC ĐẠO ĐỨC BÁC HỒ PHẢI TỪ CÁI GỐC
PHẢI THỨC TỈNH ĐƯỢC LƯƠNG TÂM CON NGƯỜI
Báo
cáo viên: Trần Trọng Tâm
|
|
Theo đồng chí Lê Duẩn,
cái gốc - trong tấm gương đạo đức Bác Hồ là lòng yêu thương con người. Đảng
dạy chúng ta, người cộng sản phải kiên định lập trường giai cấp của giai cấp
công nhân, chính là kiên định từ cái gốc đó.
Cuộc vận động "Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong toàn Đảng và trong
toàn xã hội đang được triển khai.
Tấm gương đạo đức theo
tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nêu là: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương
con người, sống có nghĩa có tình; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư;
tinh thần quốc tế trong sáng.
Theo đồng chí Lê Duẩn,
cái gốc - trong tấm gương đạo đức Bác Hồ là lòng yêu thương con người. Đảng
dạy chúng ta, người cộng sản phải kiên định lập trường giai cấp của giai cấp
công nhân, chính là kiên định từ cái gốc đó.
Từ lòng yêu thương sâu
đậm đối với con người mà biết giận kẻ gây ra cảnh khổ nhục cho con người. Rồi
người cộng sản không chỉ biết hy sinh mà còn xả thân làm cách mạng để giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, tạo điều kiện cho
con người có cuộc sống chân chính, sống bằng lao động, sống trong tình thương
và sống theo lẽ phải.
Cũng từ lòng thương yêu
con người mà hiểu được thực chất của hai chữ "vào Đảng". Sống trong
xã hội chứng kiến tình cảnh con người bị khổ nhục… mà lòng dửng dưng không
chút động lòng, đó là lúc người cộng sản đã ra khỏi Đảng.
Suy nghĩ về các cấp độ
đạo đức, thì Bác Hồ chúng ta là tấm gương sáng tuyệt đẹp về cả bốn cấp độ:
Một là, gương đạo đức
làm người: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Hai là, gương đạo đức
cách mạng của giai cấp công nhân: ý thức tổ chức và kỷ luật, ý thức tập thể,
đặt cái "tôi" trong "chúng ta".
Ba là, gương đạo đức
người chiến sĩ cộng sản, sống, phấn đấu cho lý tưởng chủ nghĩa cộng sản;
triệt để giải phóng con người. Có ý thức trách nhiệm trong vai trò tiên
phong, gương mẫu, lôi cuốn quần chúng theo Đảng, bền chí tự học, đóng góp cho
Đảng "cái đầu lạnh" với "trái tim nóng".
Bốn là, gương đạo đức
của vị lãnh tụ của một Đảng cộng sản cầm quyền, có uy tín lớn được cả dân tộc
tin yêu, nhưng rất khiêm tốn, sống giản dị, chống mọi đặc quyền đặc lợi,
không thích được tâng bốc, được sùng bái.
Chính Bác Hồ đã đề
xướng nguyên tắc tổ chức Đảng là dân chủ tập trung, coi người lãnh tụ là nhân
vật trung tâm đứng cùng hàng để lôi cuốn toàn Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
lôi cuốn toàn Đảng, toàn dân làm cách mạng theo hình vòng xoáy.
Bác không muốn đứng cao
hơn tập thể rồi đứng ở đỉnh chóp của Đảng, của dân tộc. Không muốn đứng cao
hơn tập thể, rồi coi thường tập thể; không thích được tung hô là lãnh tụ vĩ
đại. Và chính Bác Hồ chúng ta với cái đức như vậy mới thật là vị lãnh tụ vĩ
đại.
Trong bốn cấp độ về đạo
đức nêu trên, Bác Hồ luôn xem đạo đức làm người là gốc, là nền tảng. Bác Hồ
cho rằng:
Trời có bốn mùa: Xuân,
hạ, thu, đông.
Đất có bốn phương:
Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần,
kiệm, liêm, chính, thiếu một đức thì không thành người.
Ở trang đầu cuốn Sổ
vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc, là trường Đảng ở Trung ương, nơi bồi dưỡng,
đào tạo cán bộ trung, cao cấp, từ tháng 9/1949 Bác Hồ đã viết: "Học để
làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân
dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được mục đích thì phải cần, kiệm, liêm,
chính; chí công, vô tư".
Nghĩ đến hai chữ "liêm, chính", tôi nhớ, ngày
15/4/2003, Báo Công an có đưa tin anh Đồng, tài xế taxi đã tìm cách trả lại
cho khách là vợ chồng người Mỹ Billy Leepol một túi xách, trong đó có 18.800
USD và 49 triệu 400 đồng Việt Nam.
Đối với người lái xe taxi, đó là số tiền khá lớn, nếu lấy
cũng không sợ bị phát hiện, nhưng anh Đồng không tham, đã trả lại cho khách.
Hỏi ra, thì đã được trả lời đơn giản rằng, không tham vì đã
nhập tâm lời mẹ dặn, là phải ráng làm lấy mà ăn, đừng tham của người khác, hễ
tham thì thâm thôi. Chỉ nhập tâm lời mẹ dặn có vậy thôi mà anh Đồng đã giữ
được hai chữ "liêm, chính" trong đạo làm người.
Như vậy, dạy để hiểu lý lẽ về đạo làm người không khó,
nhưng hiểu mà làm theo là phải nhập tâm tức là phải thấm sâu vào lòng mình,
thành lương tâm của mình như anh Đồng, đối với nhiều người không phải dễ.
Phải có lương tâm làm
người mới có hành vi đạo đức làm người. Chúng ta cũng biết có cán bộ gọi là
cao cấp, được học khá nhiều về lý luận, về chính trị, tư tưởng, nhưng chỉ
tham ăn hối lộ mấy ngàn đôla mà đang tâm làm điều phạm tội, chính là vì học
nhiều nhưng chưa nhập tâm.
Để có hành vi đạo đức
làm người, cần phải nhập tâm rằng, trong con người có "con" và có
"người", tức là vừa có thú tính vừa có nhân tính. Hành vi theo
"con" là theo bản năng sống như loài động vật, đó là thú tính. Hành
vi theo "người" là hành vi có ý thức về làm người, tức là sống có
suy nghĩ về cái vinh cái nhục, cái đúng cái sai, cái xấu cái tốt, đó là nhân
tính. Có phát huy nhân tính mới giữ cho cuộc sống con người có niềm vui và
hạnh phúc vì đã làm được điều vinh, điều đúng, điều tốt.
Để giữ được đạo làm
người, ngoài việc đấu tranh kiềm chế thú tính, còn phải chống chủ nghĩa cá
nhân vị kỷ vì nó dẫn đến những hành vi sai trái với định nghĩa về con người,
vốn là một sinh vật mang tính xã hội. Con người ta sống phải nghĩ đến lợi mình
mà không hại người, lợi nhà phải gắn với ích nước, lợi cho dân nước mình
nhưng không làm hại cho dân nước khác.
Tu dưỡng đạo đức làm
người phải là việc tự giác của mỗi người và sự phán xét của xã hội về đạo làm
người đối với mỗi con người là hoàn toàn tự do, không một quyền lực nào có
thể ngăn cấm.
Tuy nhiên kiểm tra phán
xét thật chính xác về đạo đức của bản thân mình chỉ có lương tâm mình. Người
ta có thể tạm thời che giấu lỗi lầm của mình về đạo đức để được khen lầm,
kính phục lầm đối với mình. Nhưng, nếu có ai làm như vậy thì ngoài sai lầm về
đạo đức còn mang thêm tội lừa dối. Khi lương tâm được thức tỉnh, sự ân hận sẽ
tăng lên gấp bội. Ân hận là biểu hiện sự trừng phạt của lương tâm.
Nhưng nếu phạm sai lầm
mà có sự ân hận sâu sắc thì có thể tránh được tái phạm. Táng tận lương tâm,
làm điều giả dối, điều xấu, điều ác mà không ân hận là không còn tính người.
Giữ được trọn vẹn đạo làm người rất khó, phải tự rèn luyện thường xuyên, liên
tục, đừng để khôn nhiều năm mà buông lỏng tu dưỡng để dại chỉ một giờ mà hỏng
cả cuộc đời.
Các biểu hiện về suy
thoái đạo đức trong một bộ phận cán bộ đảng viên hiện nay đều thuộc cấp độ
đạo đức làm người, tức là suy thoái từ gốc.
Giáo dục, học tập về
đạo đức phải đi đến thức tỉnh được lương tâm con người, làm cho mỗi người tự
mình hình thành được trong mình một tòa án lương tâm đủ sức phán xét thật
nghiêm khắc về đạo đức làm người của chính mình.
Có làm được như vậy,
cuộc vận động học tập và làm theo gương đạo đức Bác Hồ lần này mới có thể đạt
được kết quả mong muốn
HỌC
TẬP VÀ THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỰC
HỐ
CHÍ MINH
Báo cáo viên: TS. Nguyễn Khánh Bật
Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh
Tiến sĩ Nguyễn Khánh
Bật, Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh cho rằng, trong điều kiện hiện nay, trước
nguy cơ nạn tham nhũng và tệ quan liêu, trước thực trạng thoái hóa về phẩm
chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, việc học tập, thực hiện tư
tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng trở nên cấp thiết.
Thực
tế từ nǎm 1991 đến nay đã chứng tỏ khi sự nghiệp đổi mới càng mở rộng và phát
triển theo chiều sâu thì việc nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh
càng được đẩy mạnh và mang tính hệ thống. Thành công của đổi mới gắn bó chặt
chẽ với việc học tập, quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh. Nói một
cách khác, có sự thống nhất, sự hòa quyện, quan hệ nhân quả giữa thắng lợi to
lớn của sự nghiệp đổi mới với vai trò chỉ lối, đưa đường của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Quan điểm ấy được quán triệt sâu sắc trong toàn bộ Dự thảo các vǎn kiện
trình Đại hội Đảng lần thứ IX của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (từ đây
xin được viết gọn là dự thảo).
Dự thảo viết, qua 15 nǎm đổi mới (1986-2000) đã cho nhân dân Việt Nam "nhiều kinh nghiệm quý báu,... càng thấy nổi bật nhiều điều sâu sắc". Kinh nghiệm quý báu đầu tiên, điều sâu sắc đầu tiên là: "Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh". ở phần III - "Mấy vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta", quan điểm trên đây được nhấn mạnh: "Chúng ta một lần nữa khẳng định: Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Dự thảo cho rằng: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thụ tinh hoa vǎn hóa nhân loại, là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam... Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi; đó là tài sản tinh thần to lớn vô giá của Đảng ta, dân tộc ta".
Với tư cách là một hệ thống quan
điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, nội
hàm tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú. Nhân tố hàng đầu tạo nên một hệ thống
quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam
chính là tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. ý thức sâu sắc vai trò nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với Đảng và dân
tộc cho nên cùng với bước tiến về nhận thức, Dự thảo còn đòi hỏi ngay từ bây
giờ và sang thế kỷ 21 cần đẩy mạnh hơn nữa việc học tập, quán triệt, thực hành
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó đặc biệt chú trọng tư tưởng đạo đức. ở phần IV
- "Đường lối kinh tế và chiến lược phát triển", Dự thảo đặt vấn đề
trong giáo dục, đào tạo những chủ nhân của thế kỷ 21 cần: "Coi trọng
giảng dạy các bộ môn Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống trong mọi loại hình trường". Đối với những
người đang giữ trọng trách trong quản lý và điều hành đất nước hiện nay, Dự
thảo viết: "Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết đối
với cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, về chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh". Việc học tập, thực hành tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh
đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thể hiện đặc biệt rõ ở phần X -
"Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao nǎng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng". Về vấn đề này, Dự thảo có đoạn: "Mở rộng trong toàn Đảng
và trong nhân dân phong trào học tập và làm theo tư tưởng và đạo đức Hồ Chí
Minh".
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là
sự phản ánh hoàn cảnh kinh tế, chính trị, vǎn hóa, xã hội của đất nước và
thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động thông
qua nhận thức và hành vi đạo đức Hồ Chí Minh. Vì vậy, tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh không chỉ được Người đề cập qua những tác phẩm, bài nói, bài viết mà
được phản ánh sâu đậm nhất trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng dũng cảm,
sáng tạo vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người của Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà cách
mạng chuyên nghiệp, do đó, đạo đức mà Người đề cập trong các tác phẩm, bài
nói, bài viết và suốt đời nêu gương, theo đuổi trước hết là đạo đức của người
cách mạng, là đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, để hoàn thành
mọi nhiệm vụ do cách mạng giao phó người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đạo
đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. Điều quan
trọng nhất đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh là tuyệt đối trung thành không chỉ
dừng lại trên lời nói, ở phạm trù, chuẩn mực đạo đức mà phải biến thành lẽ
sống và phương thức hoạt động của mỗi người, trước hết là cán bộ, đảng viên.
Với quan niệm đó, khi đi vào hoạt động thực tiễn "tuyệt đối trung
thành" phải là "quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng".
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là tiêu chuẩn số một của người cách mạng, của đạo
đức cách mạng. Đương nhiên, ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng gắn bó
với tinh thần triệt để cách mạng, với trình độ khoa học sâu sắc. Do đó lòng
trung thành không chỉ là cần cù, chịu khó, sẵn sàng hy sinh tính mạng mà còn
phải bảo đảm hoàn thành mọi nhiệm vụ, chiến thắng mọi kẻ thù. Để đạt mục tiêu
đó phải biết kết hợp nhiệt tình cách mạng với trình độ khoa học. Chủ tịch Hồ
Chí Minh gọi đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa đức với tài. Hiện nay, chúng ta
gọi đó là sự kết hợp phẩm chất đạo đức với nǎng lực trí tuệ.
Trong khi cho rằng để chiến thắng
mọi kẻ thù trước tiên phải có đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái
quát kẻ địch gồm ba loại:
- Chủ nghĩa tư bản và đế quốc thực dân;
- Thói quen và truyền thống lạc hậu;
- Chủ nghĩa cá nhân.
Ba kẻ địch nêu trên liên quan chặt chẽ với nhau, muốn chiến thắng chúng không chỉ biết dùng gươm, dùng súng, dũng cảm xông lên, mà còn phải biết cải tạo, bao gồm cải tạo bản thân mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, "một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài".
Cần
nói thêm là, cùng với sự phát triển của cách mạng, nhất là khi đất nước bước
vào thời kỳ xây dựng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng chú ý nhiều hơn tới việc
chống kẻ thù thứ ba: chủ nghĩa cá nhân. Thật có ý nghĩa khi chúng ta biết
đúng vào dịp kỷ niệm 39 nǎm Ngày thành lập Đảng, báo Nhân dân số 5409, ngày
3-2-1969 đǎng bài của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với những
người "mang một ba-lô chủ nghĩa cá nhân", thì làm việc gì đầu tiên
họ cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình, không lo mình vì mọi người mà chỉ
đòi hỏi mọi người vì mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa cá nhân
"là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư tật xấu,... là kẻ thù hung ác của đạo
đức cách mạng, chủ nghĩa xã hội".
Từ
quan điểm "kẻ địch gồm có ba loại", phù hợp điều kiện mới, tại Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, nǎm 1994, Đảng Cộng sản Việt
Nam nêu lên bốn nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam, trong đó nguy cơ thứ ba
là nạn tham nhũng và tệ quan liêu. Nguy cơ này xuất hiện trước hết do một bộ
phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ, đảng viên cấp cao rơi vào chủ
nghĩa cá nhân, xa rời đạo đức cách mạng. Dự thảo các vǎn kiện trình Đại hội
IX tiếp tục nói tới sự tồn tại và diễn biến phức tạp của bốn nguy cơ mà Đảng
đã cảnh báo từ đầu nǎm 1991, đồng thời nhấn mạnh rằng một trong những thách
thức lớn nhất đối với cách mạng Việt Nam khi bước sang thế kỷ 21 là
"trong bộ máy Đảng và Nhà nước tệ quan liêu, tham nhũng và sự tha hóa về
phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi".
Nếu nǎm 1991 Đảng mới chỉ nói tới nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu
thì hơn sáu nǎm sau nguy cơ đó chưa bị đẩy lùi, lại còn xuất hiện thêm
"sự suy thoái về phẩm chất đạo đức". Theo suy nghĩ của chúng tôi,
quan liêu, tham nhũng là biểu hiện của sự suy thoái về phẩm chất đạo đức,
nhưng sự suy thoái về phẩm chất đạo đức còn bao gồm cả những biểu hiện xuống
cấp về đạo đức như lối sống sa đọa, thực dụng,... Có thể nói rằng nguy cơ đối
với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam xuất hiện từ
trong bộ máy của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể không chỉ đơn thuần là tệ
quan liêu, nạn tham nhũng mà là một loạt những vấn đề hết sức phức tạp. Nếu
gọi sự vật theo đúng tên của nó thì đó chính là chủ nghĩa cá nhân. Bởi vì
theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mẹ đẻ ra mọi thói hư tật xấu, mọi lỗi lầm đều nảy
sinh từ chủ nghĩa cá nhân. Đó là kẻ thù trước tiên cần phải chống trong mỗi
con người, trong bộ máy của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Dự thảo đã quán
triệt tư tưởng đó. Dự thảo đã trực tiếp đề cập việc phải kiên quyết đấu tranh
với những cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân, mang nặng tư tưởng cá
nhân. Dự thảo biểu thị quyết tâm của toàn Đảng: "Kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống, tệ quan liêu, tham nhũng, tư tưởng thực dụng, tham vọng cá nhân, lối
sống vị kỷ, sa đọa". Nếu không khắc phục được những tệ nạn nêu trên thì
Đảng, Nhà nước không thể làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: Muốn được dân tin, dân phục, dân yêu, cán bộ phải siêng
nǎng, tiết kiệm, trong sạch, chính đáng. Nếu không thực hành bốn điều đó, mà
muốn được lòng dân thì cũng như bắc dây leo trời. Điều đáng quan tâm là, nếu
tháng 2-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới chỉ viết, có "một số ít cán bộ,
đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém" thì hiện nay số đó hình
như đã tǎng lên. Dự thảo nhiều lần sử dụng các cụm từ "một bộ phận cán
bộ, đảng viên", "một bộ phận cán bộ, công chức" và "không
ít cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, mang
nặng tư tưởng cá nhân, tham vọng quyền lực, danh lợi, cục bộ, bản vị, chưa
gương mẫu rèn luyện bản thân".
Thực
trạng trên đây cho thấy tính cấp thiết, ý nghĩa thời sự của việc học tập và
thực hiện tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Chỉ xuất phát từ "sự thoái hóa
về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên" và toàn xã hội
chúng ta, mới hiểu hết quan điểm về học tập và thực hiện tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh được trình bày trong Dự thảo.
Với
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng trung thành, đạo đức cách mạng không bao giờ là
một khái niệm trừu tượng mà phải được chứng minh qua những việc làm hằng
ngày. Cách đây hơn 50 nǎm, đúng ngày 2-9-1950, báo Sự Thật số 140 đǎng bài
"Phải tẩy sạch bệnh quan liêu". Trong bài báo này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: Đã phụng sự nhân dân thì, phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc
gì có lợi cho dân, dù nhỏ cũng phải làm cho kỳ được, việc gì có hại cho nhân
dân dù nhỏ cũng phải hết sức tránh. Ngay từ nǎm 1926, Hồ Chí Minh chỉ rõ tiêu
chuẩn số một của "người cách mạng mẫu mực" là: "Đêm ngày nghĩ
đến sự nghiệp cách mạng và cứu độ nhân loại".
Cuộc
đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực trong việc thực hiện trọn vẹn
những chuẩn mực đạo đức do mình khởi xướng. Cho đến những giây phút cuối cùng
của đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tâm niệm và hành động vì đạo lý: Bất
kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích
quốc lợi dân.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi, những quan điểm, chủ trương, đường lối đúng
đắn phải mang lại hiệu quả thiết thực: làm lợi cho dân, trừ hại cho dân. Do
đó, cùng với coi trọng việc đề ra chủ trương, đường lối, Người đặc biệt chú ý
giải pháp và quyết tâm thực hiện chủ trương, đường lối đã đề ra. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ: Đường lối chủ trương có rồi, phải có biện pháp thực hiện cho
tốt... Kế hoạch một phần, biện pháp phải hai phần và quyết tâm phải ba phần,
có như thế mới có thể hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước. Có
thể nói toàn bộ Dự thảo, trong đó có phần về đạo đức đã quán triệt quan điểm
trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh: cùng với việc nêu lên quan điểm, chủ
trương đã đề ra biện pháp và quyết tâm thực hiện. Do đó, chúng ta có cơ sở để
tin rằng, với Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, toàn Đảng và mỗi cán bộ,
đảng viên sẽ từng bước thực hiện được bốn chữ "thật" mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dặn trong Di chúc: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VÀP HÁT TRIỂ VĂN HOÁ ,THỰC HIỆN TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ
Báo cáo viên: GS.TS.Phạm Xuân Nam
Viện
Khoa học xã hội Việt Nam
TCCS - Các văn kiện Đại hội XI của Đảng đã đề ra
nhiều chủ trương, quan điểm mới nhằm tiếp tục giải quyết tốt hơn mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội trong giai đoạn 2011 - 2020. Để cụ thể hóa những chủ trương, quan
điểm này, cần có các cơ chế, giải pháp đồng bộ, thích hợp, như tái cấu trúc
nền kinh tế, đối xử bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp, thực hiện nhất
quán nguyên tắc phân phối mới, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội...
Tư duy
lý luận và hành động thực tiễn đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong giai đoạn 1986 - 2010
Hơn 25 năm qua, kể từ sau Đại hội VI của Đảng (năm 1986),
tiến trình đổi mới toàn diện đất nước ngày càng đi vào chiều sâu. Trước những
vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống, Đảng ta đã rất coi trọng phát triển tư duy
lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong nước, đồng thời mở rộng tầm nhìn
ra bên ngoài, chú ý tham khảo kinh nghiệm của thế giới. Qua đó, các đại hội
VII, VIII, IX, X của Đảng và nhiều hội nghị Trung ương thuộc các nhiệm kỳ đại
hội ngày càng xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng quát, mục tiêu chung, cùng
với hệ thống các chủ trương và quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo việc giải quyết
hàng loạt mối quan hệ cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại…, bảo đảm cho sự thành công của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Riêng về mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, xã hội, Đảng
đã đề ra những chủ trương, quan điểm lớn có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn nổi bật
sau:
- Kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển. Đây là chủ trương và quan điểm có ý nghĩa bao trùm.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
xem văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; phát triển
giáo dục và đào tạo là nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng
được học hành.
- Khoa học và công nghệ cũng là quốc sách hàng đầu, là động
lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước phát triển
kinh tế tri thức.
- Tôn trọng lợi ích chính đáng của người lao động và các
chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã
hội.
- Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân
tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
- Khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích
cực xóa đói, giảm nghèo; có chính sách hướng dẫn, hỗ trợ người nghèo vươn lên
và phấn đấu trở thành khá giả.
- Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
nhân dân, phấn đấu giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát
triển giống nòi. Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe đối với
các tầng lớp dân cư, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo.
- Trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, con
người được đặt vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ
hội phát triển và phát huy tốt năng lực của mình...
Thực hiện những chủ trương và quan điểm nói trên của Đảng,
Quốc hội và Chính phủ đã thể chế hóa thành hệ thống chính sách, luật pháp,
các chương trình, dự án, kế hoạch cụ thể để đưa vào cuộc sống và đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Về kinh tế: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao trong nhiều năm liền. GDP bình quân đầu người từ khoảng 200
USD năm 1990 tăng lên 1.168 USD năm 2010. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém
phát triển.
Về văn hóa - xã hội: Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật,
thông tin - truyền thông… từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày
càng cao của nhân dân. Giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính
sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực. Đổi mới giáo dục thu được một số
kết quả bước đầu. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên. Hoạt động nghiên cứu,
ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ dần được đẩy mạnh. Công tác chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Chỉ số phát triển con người (HDI) không
ngừng gia tăng: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,647 năm 1995; 0,715 năm
2005; 0,725 năm 2007...
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, mà
chủ yếu là nguyên nhân chủ quan, sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của
nước ta vẫn tồn tại nhiều hạn chế và yếu kém.
Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển
theo chiều rộng, không kịp thời đổi mới nhận thức để sớm chuyển sang phát
triển theo chiều sâu. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế thấp.
Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế.
Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, nguồn nhân lực được đào tạo ra chưa
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Khoa học và công
nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nhất là tỷ lệ thiếu việc
làm ở nông thôn còn cao. Xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái
nghèo còn nhiều. Khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân
cư, giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi có xu hướng ngày càng
doãng ra.
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế
tuy được mở rộng nhưng phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho người dân. Cơ
chế, chính sách bảo hiểm y tế, thu viện phí và khám, chữa bệnh cho người
nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn không ít bất
cập.
Bên cạnh đó, các tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp.
Chủ
trương, quan điểm mới về việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong giai đoạn
2011 - 2020
Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực
trạng, tình hình đã qua, các văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chú trọng kế
thừa, đồng thời bổ sung, phát triển nhiều chủ trương, quan điểm mới để tiếp
tục thực hiện tốt hơn việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, xã hội trong giai đoạn 2011 - 2020.
Những chủ trương, quan điểm và chính sách mới chủ yếu đó
là:
1 - Kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về
ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa
vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập
thể và cộng đồng xã hội.
2 - Đẩy mạnh xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết
chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội.
3 - Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu
cầu phát triển của xã hội. Coi trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,
đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công
nghệ, văn hóa đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề. Tăng cường
xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học
tập suốt đời.
4 - Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức;
góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước; nâng cao tỷ lệ đóng góp
của yếu tố năng suất tổng hợp vào quá trình tăng trưởng trong mô hình phát
triển theo chiều sâu.
5 - Trên cơ sở đầu tư phát triển kinh tế, phải hết sức quan
tâm tới yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội, tạo điều kiện giải quyết
ngày càng nhiều việc làm cho người lao động, đặc biệt là cho nông dân. Có
chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết
hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa
nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng,
miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội.
6 - Chú ý nhiều hơn công tác y tế dự phòng và chăm sóc sức
khỏe nhân dân. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế từ cơ sở, huyện, tỉnh đến
Trung ương. Tăng đầu tư nhà nước đồng thời với đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt
động y tế. Phát triển mạnh công nghiệp dược; quản lý chặt chẽ thị trường
thuốc chữa bệnh. Bảo đảm cho người có bảo hiểm y tế được khám, chữa bệnh
thuận lợi; mọi công dân khi có nhu cầu và khả năng đều được đáp ứng dịch vụ y
tế chất lượng cao.
Kiến
nghị một số cơ chế, giải pháp
Như trên đã trình bày, các văn kiện Đại hội XI của Đảng đã
đề ra nhiều chủ trương, quan điểm mới để tiếp tục giải quyết tốt hơn mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội trong giai đoạn 2011 - 2020. Dưới đây xin nêu một số kiến nghị về
cơ chế, giải pháp góp phần triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng xoay quanh mấy vấn đề chủ yếu sau:
Một là, quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt hơn quan điểm
kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển. Theo quan
điểm đó, chúng ta không chờ kinh tế đạt đến trình độ phát triển cao mới phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không hy sinh văn
hóa, hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn
thuần. Muốn vậy, mỗi chính sách phát triển kinh tế đều phải hướng tới phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; mỗi chính sách phát
triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội đều phải góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hoặc lâu dài. Bất
cứ một sự sai sót hay thiên lệch nào trong hoạch định và thực thi các chính
sách có liên quan đều sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu này hay mục tiêu
khác của kế hoạch phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội,
thậm chí gây tác hại đến cả ba loại mục tiêu.
Hai là, đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, thực
hiện mô hình tăng trưởng mới chủ yếu dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao. Bước vào giai đoạn 2011 - 2020,
không thể tiếp tục kéo dài mô hình tăng trưởng theo chiều rộng vốn được áp
dụng suốt mấy thập niên qua. Vì đây là mô hình tăng trưởng sử dụng nhiều vốn,
công nghệ lạc hậu, với đa số lao động tay nghề thấp, chủ yếu làm gia công,
lắp ráp, khai thác và bán rẻ tài nguyên thô hoặc sơ chế. Hệ quả là chất lượng
tăng trưởng của nền kinh tế không cao, thu nhập của một bộ phận đáng kể người
lao động thấp, đời sống của họ gặp nhiều khó khăn. Do đó, đã đến lúc cần có
cơ chế, chính sách và lộ trình thích hợp để tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển
sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, với đa số lao động có trình độ học
vấn và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng đi vào lĩnh vực thiết kế, chế tạo
thuộc các ngành công nghệ mũi nhọn, làm ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Nhờ vậy mà nền kinh tế nước nhà tăng trưởng nhanh hơn, với chất lượng cao hơn
và người lao động cũng có thu nhập xứng đáng để cải thiện đời sống vật chất
và văn hóa của chính mình. Về thực chất, đây là giải pháp đưa các nhân tố văn
hóa, tinh thần, nhân văn cùng các tiêu chí tiến bộ và công bằng xã hội chuyển
nhập vào bên trong mô hình tăng trưởng mới của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ba là, tạo cơ hội cho các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế được tiếp cận bình đẳng các yếu tố “đầu vào” của sản xuất,
kinh doanh để cùng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời thực hiện
tốt hơn tiến bộ và công bằng xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, thời gian qua, các doanh
nghiệp nhà nước vẫn thường được ưu tiên trong tiếp cận đất đai, tín dụng và
các yếu tố “đầu vào” khác của sản xuất, kinh doanh. Nhưng hiệu quả làm ăn của
nhiều doanh nghiệp nhà nước không tương xứng với những ưu ái mà Nhà nước dành
cho họ. Chẳng những thế, không ít doanh nghiệp nhà nước còn làm ăn thua lỗ
kéo dài. Trong khi đó, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân -
thành phần có tốc độ tăng trưởng cao nhất và tạo ra nhiều việc làm nhất -
không phải bao giờ cũng được đối xử bình đẳng. Vì thế, sắp tới cần triệt để
xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, đặt tất cả các doanh nghiệp nhà nước vào môi
trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị
trường. Chỉ có như vậy mới kích thích các doanh nghiệp nhà nước vươn lên một
cách lành mạnh, đồng thời sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước mới không
chèn lấn các nguồn lực để phát triển khu vực doanh nghiệp tư nhân - một động
lực mạnh của tăng trưởng kinh tế gắn liền với mở rộng việc làm, yếu tố quan
trọng của tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, đối với các kết quả “đầu ra” của quá trình sản
xuất, kinh doanh, cần tiếp tục thực hiện nhất quán nguyên tắc phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Việc phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế được xem là chủ yếu vì chính lao động có năng suất,
chất lượng và hiệu quả mới thực sự là nguồn gốc quan trọng nhất tạo ra mọi
của cải cho xã hội. Nhưng trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần, ngoài phân phối theo kết quả lao động, việc phân phối theo
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh cũng phải
được coi là công bằng.
Năm là, trong việc đầu tư công cho phát triển đất nước, cần
có quy hoạch và kế hoạch cụ thể để cân đối hợp lý mức đầu tư cho các vùng
lãnh thổ khác nhau.
Việc dành mức đầu tư cao hơn cho các vùng kinh tế động lực là rất cần thiết,
nhằm tạo ra những “đầu tàu” tăng trưởng để kéo theo cả “đoàn tàu” kinh tế đi
lên. Mặt khác, cần quan tâm đầu tư thỏa đáng cho các vùng khác, nhất là vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm giảm dần khoảng cách về
trình độ phát triển giữa các vùng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo
đảm cho sự phát triển văn hóa - xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng
gắn liền với tăng trưởng kinh tế của tất cả các vùng, miền trong cả nước.
Sáu là, kết hợp hài hòa giữa việc phân phối lại thông qua
điều tiết hợp lý thu nhập trong các tầng lớp dân cư với việc hoàn thiện hệ
thống an sinh xã hội. Theo chúng tôi, hệ thống đó bao gồm: chính sách ưu đãi xã hội nhằm
bảo đảm mức sống ít nhất trên trung bình đối với người có công; chính
sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động sự tích góp một phần thu nhập của
người lao động lúc bình thường để dành chi tiêu cho những lúc gặp khó khăn
(thất nghiệp, bệnh tật, tuổi già…); chính sách trợ cấp xã hội nhằm
trợ giúp những người yếu thế và dễ bị tổn thương, như người tàn tật, người
già cô đơn, trẻ em mồ côi lang thang, cơ nhỡ…; chính sách cứu trợ xã
hộichính sách tương trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống tương thân
tương ái, “lá lành đùm lá rách” trong cộng đồng để giúp nhau vượt qua khó
khăn, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện cuộc sống. nhằm cưu mang những người bị
thiệt hại nặng do thiên tai, địch họa hoặc gặp rủi ro trong cuộc sống;
Việc
thực hiện tốt hệ thống chính sách an sinh xã hội nhiều tầng nấc là thước đo
quan trọng của một xã hội tiến bộ, công bằng, văn minh, đồng thời là nhân tố
quan trọng khơi dậy tính tích cực, sự hăng hái của các tầng lớp nhân dân
trong sản xuất, kinh doanh để thoát đói, vượt nghèo, vươn lên làm giàu cho
bản thân và cho đất nước.
NHÂN QUYỀN
Báo cáo viên: Trần Đình Huỳnh
Nhân quyền
nói nôm na là quyền con người, là những quyền tự nhiên của con người (quyền
Tạo hóa ban cho một cách bình đẳng đối với tất cả mọi sinh linh ra đời mang
đẳng cấp Người - Con Người). Đó là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc. Quyền ấy theo luật tự nhiên thì nó không thể bị tước bỏ bởi
bất cứ ai, bởi bất cứ chính thể nào. Loài người đã từng được hưởng quyền bình
đẳng ấy trong thời bình minh của xã hội do nó kiến tạo một cách sơ khai,
thuần khiết, trong sáng, hoàn toàn không có sự tư túng, không có sự chiếm hữu
của lòng tham ích kỷ. Thời kỳ ấy đã một đi không trở lại nhưng nó đã ghi dấu
ấn vàng son về quyền con người mà Tạo hóa đã ban tặng, để từ khi bước vào xã
hội có nhà nước cho tới nay, nhân loại đã từng tốn bao nhiêu giấy mực, tiền
của và máu xương để tìm kiếm lại cái quyền thiêng liêng ấy. Chính luật tự
nhiên đã bị mọi chính thể vi phạm bởi các luật thực định, luật thể hiện ý chí
của giai cấp cầm quyền.
Hãy
thử nói về quyền được sống
Đã được
sinh ra mang danh hiệu Con Người thì ai chả muốn sống, ai chả muốn có nhu cầu
về miếng ăn, thức uống, ai không muốn có quần áo để che thân khi trời nóng
lạnh, ai không muốn có được một mái nhà để cư ngụ khi mưa nắng, ai không muốn
được học hành…? Nhưng than ôi! Như dân tộc Việt Nam ta đã có lịch sử mấy ngàn
năm dựng xây và bảo về sơn hà của mình, đã từng xây nền văn hiến từ lâu mà
tại sao đã bao đời đại bộ phận nhân dân ta vẫn đói rách cơ cực? Cha ông ta đã
từng vùng lên, vật vã, kiếm tìm nhưng tìm mãi mà vẫn chưa có đường ra. Nhà
thơ lớn - tác giả của thi phẩm Điêu tàn viết trong thuở nô lệ dân ta
mất nước - đến cách mạng mùa thu dựng nền dân chủ cộng hòa mới ngộ ra
vì sao “Cha ông ta từng đấm nát tay trước cánh cửa cuộc đời. Cửa vẫn đóng và
đời im ỉm khóa” (Chế Lan Viên, “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng”). Chính vì
thế lòng mong muốn tột cùng của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh rằng mọi
người ai cũng có việc làm, ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, ai cũng được
học hành, cho tới nay vẫn là mơ ước của hàng tỷ người trên trái đất.
Thiết nghĩ,
các thế hệ người Việt Nam ta, bất cứ ai - trừ những người bị thiểu năng trí
tuệ - đều không thể không thừa nhận đoạn nghị luận có giá trị như là một
“Thiên cổ hùng văn” sau đây: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của
nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng,dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do.
Bản Tuyên
ngôn Nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người
ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những
lẽ phải không ai chối cãi được”. (Hồ Chí Minh, “Tuyên ngôn Độc lập”).
“Không
có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó là cốt lõi của nhân quyền. Chính vì
thế mà nhân dân ta đã hy sinh biết bao tiền của, máu xương suốt trong 30 năm
dài đấu tranh để giành và giữ vững chủ quyền quốc gia. Hơn bất cứ ai, những
người cần lao - lao động trí óc và lao động chân tay Việt Nam hiểu rằng nếu
nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa gì.
Cố gắng vật
vã, kiếm tìm, Đảng và Nhà nước Việt Nam nguyện làm công bộc của nhân dân,
thành tâm mong muốn đất nước mau chóng thoát khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Có
thành công, có thất bại, sai lầm. Nhưng cái đáng ghi nhận là những người cách
mạng Việt Nam đã biết nhận ra những điều sai lầm, quyết tâm đổi mới, sửa chữa
để tiến lên. Thái độ đúng đắn nhất là phải xây dựng cho được mối quan hệ giữa
nhà nước với nhân dân theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nhà nước phải
làm đầy tớ thật trung thành cho nhân dân và nhân dân sử dụng nhà nước để làm
việc cho mình, nếu nhà nước có sai lầm thì phải phê bình nhưng phê bình không
có nghĩa là chửi bới.
Xây dựng
nhà nước dân chủ và pháp quyền, nâng cao dân trí và nâng cao quan trí để ai
ai cũng phải đặt mình dưới Hiến pháp và pháp luật; mọi công dân được bình
đẳng trước pháp luật, được làm tất cả mọi việc mà pháp luật không cấm; còn
nhà nước từ người đứng đầu cho đến nhân viên chính phủ, nhân viên hành chính
xã, phường chỉ được làm những điều mà pháp luật cho phép. Đó là vấn đề cấp
bách của vấn đề nhân quyền của nước ta hiện nay, cụ thể là nhiệm vụ cải cách
tư pháp trọng tâm là sửa đổi Hiến pháp và cải cách hành chính - những công
việc mà Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra và quyết tâm lãnh đạo
thực hiện.
Còn
vấn đề tự do?
Tự do, như
mọi người đều biết, nó không phải là sự tưởng tượng đối với các qui luật tự
nhiên mà là nhận thức được các quy luật đó và ở các khả năng - có được nhờ sự
nhận thức này - buộc những qui luật đó tác động một cách hợp lý nhằm những
mục đích nhất định. Luận điểm trên còn đúng trong đời sống xã hội lẫn ý chí,
tư duy của con người. Như vậy, tự do của ý chí chẳng qua chỉ là các năng lực
quyết định một cách hiểu biết. Do đó, sự phán đoán của một nguời về một vấn đề
nhất định, càng tự do bao nhiêu thì nội dung của sự phán đoán sẽ được quyết
định với một tính tất yếu càng lớn bấy nhiêu; còn sự không quả quyết, do
không hiểu biết mà ra… chứng tỏ rằng nó không có tự do, nó bị chi phối bởi
đối tượng mà lẽ ra nó phải chi phối. Vì vậy, tự do là sự chi phối được chính
bản thân và tự nhiên bên ngoài, một sự chi phối dựa trên sự nhận thức được
những tất yếu của tự nhiên; do đó nó tất yếu là một sản phẩm của lịch sử. Vì
vậy, mỗi bước tiến trên con đường văn minh lại là một bước tiến tới tự
do.
Đảng Cộng
sản Việt Nam nêu ra mục tiêu phấn đấu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” chính là khẳng định: xã hội chúng ta tiếp tục một bước phát
triển mới, tiến tới tự do. Xã hội không phải là những cá nhân riêng lẻ,
mà là tập hợp của cả cộng đồng trong mối quan hệ đan xen và tác động lẫn nhau
giữa cá nhân - gia đình - dân tộc - Tổ quốc và Nhà nước. Song, xã hội vận
động và phát triển bao giờ cũng do những cá nhân sống và hoạt động, theo đuổi
những lợi ích khác nhau. Nhưng, chính những nhu cầu, lợi ích, mục đích, hoạt
động ấy của con người lại bị ràng buộc trong mối quan hệ với những người
khác, với xã hội. Do đó, nó luôn luôn bị chi phối bởi cái tất yếu trong mối
quan hệ nhân quả. Giải quyết thoả đáng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
là vấn đề cốt lõi của động lực phát triển xã hội. Lịch sử chế độ xã hội ở bất
cứ quốc gia nào, vấn đề lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội cũng đều có xung
đột ở những mức độ khác nhau. Giải quyết những xung đột ấy, điều chỉnh nó sao
cho có sự hài hoà tương đối, “cùng chấp nhận được”, để không phá vỡ cấu trúc
xã hội, để “quốc thái, dân an”, “dân giàu nước mạnh" là vấn đề thường
nhật và không hề dễ dàng của một chế độ nhà nước cũng như của mỗi cá
nhân.
Xã hội càng
phát triển thì ý thức cá nhân về nhu cầu, lợi ích càng tăng, con người ngày
càng đòi hỏi thoả mãn những nhu cầu ngày càng cao của mình. Nhưng xã hội phát
triển bao giờ cũng thông qua hành động của các cá nhân. Và, như vậy động lực
thúc đẩy con người trong hành động để thoả mãn nhu cầu, lợi ích (vật chất và
tinh thần) của họ cũng chính là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Song cần
lưu ý là: động lực thúc đẩy xã hội tuy là động lực của các cá nhân nhưng
không phải là động lực của một số cá nhân riêng lẻ mà là động lực lay động,
thôi thúc hàng triệu, hàng chục triệu con người, cả một cộng đồng quốc gia -
dân tộc trong những thời điểm lịch sử nhất định.
Xã hội
chính trị lành mạnh luôn luôn hướng dẫn, khích lệ, cổ vũ động lực đúng đắn
của mỗi cá nhân, khi cá nhân hành động với động cơ phù hợp với lợi ích chung
của cộng đồng thì khi ấy xung đột xã hội giảm thiểu, tạo ra sự hài hoà, đồng
thuận cùng phát triển. Ngược lại, những cá nhân đi ngược dòng sự phát triển
chung sẽ bắt buộc phải “dừng lại”, quay lại, xác định lại nhu cầu, lợi ích để
hành động hợp với quy luật chung của sự tiến hoá, nếu không cá nhân đó sẽ bị
đào thải, bị cầm tù trước cái tất yếu, tức là không có tự do. Nhận thức được
mối quan hệ nhân quả này để hướng hành động của mỗi cá nhân, của xã hội sao
cho phù hợp, đó chính là quá trình “xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”.
Trong giai
đoạn hiện nay, ở nước ta, nền kinh tế thị trường đang phát huy tác dụng, lợi
ích cá nhân được tôn trọng, pháp luật tạo cho mọi người đều có cơ hội làm
giàu, mà dân giàu thì nước mạnh. Như vậy, lợi ích của mỗi người đang có cơ sở
để thống nhất cao với lợi ích của xã hội. Chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước là sự bảo đảm về chính trị - pháp lý, để ai ai cũng
được tự do làm giàu chính đáng. Bởi vì tự do, suy cho cùng, là ai muốn làm gì
thì làm nhưng không được vi phạm tự do của người khác, của xã hội. Kỷ luật
của Đảng (đối với đảng viên) và pháp luật của Nhà nước là tất yếu của sự phát
triển của mỗi người phù hợp với từng bước tiến của cả xã hội. Chúng ta cần
nhận thức rõ điều đó để hoàn toàn có tự do trong hành động. “Tự do là sự nhận
thức được cái tất yếu”. Chỉ dẫn đó phải là kim chỉ nam cho động cơ và hành
động của tất cả mọi người.
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA THEO DI CHÚC CỦA
CHỦ TỊCH
HỒ CHI MINH
Báo cáo viên: TS. Văn Thị Thanh Mai
Ban Tuyên giáo Trung ương
Với
bản Di chúc lịch sử, dẫu Người viết đó chỉ là “mấy lời... phòng khi tôi sẽ đi
gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả
nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột...”,
nhưng Người gửi gắm trong đó là tất thảy ham muốn và tâm nguyện trọn cuộc đời
của Người.
Di chúc
đã thể hiện tầm nhìn văn hoá rộng lớn và trí tuệ văn hoá sâu sắc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh; dạt dào cảm xúc, chứa chan tình yêu và sự gắn bó sâu xa với con
người, cuộc đời và thiên nhiên; là ánh sáng chỉ đường, là sức mạnh thôi thúc
hành động, chẳng những đối với nhân dân ta mà còn đối với tất cả những ai đang
đấu tranh cho tự do, độc lập, cho sự tiến bộ của loài người.
Văn
hóa trong mối quan hệ với kinh tế, chính trị
Coi văn
hóa là một mặt hợp thành toàn bộ đời sống xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định văn
hoá tồn tại và phát triển trong mối liên hệ biện chứng với các yếu tố kinh
tế, chính trị và chịu sự quy định của kinh tế, chính trị. Người viết: “Muốn
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao
không nói phát triển văn hoá và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực
được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”. Không chỉ thấy vai trò quyết định
của kinh tế đối với văn hoá, Hồ Chí Minh còn thấy được vai trò to lớn của văn
hoá đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”. Chính vì vậy, Người chỉ rõ
“văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”và đòi hỏi trong công cuộc kiến thiết
nước nhà có bốn vấn đề cần phải chú ý, phải coi trọng ngang nhau: chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó “văn hoá phải thiết thực phục vụ nhân dân,
góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng. Vì
vậy, nội dung văn hoá phải có ý nghĩa giáo dục... Văn hoá phải gắn liền với
lao động, sản xuất”.
Văn hoá
còn là một mặt trận để đấu tranh chính trị, “không thể đứng ngoài, mà phải ở
trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong
văn hóa”. Nhấn mạnh vai trò động lực của văn hóa, theo Hồ Chí Minh tiến lên
chủ nghĩa xã hội nâng cao đời sống của nhân dân lao động cần phải có cả vật
chất lẫn tinh thần, song không thể chỉ đặt trọng tâm vào kinh tế, mà phải chú
trọng cả văn hóa, vì chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con người và
thước đo trình độ con người là văn hóa. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với
phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội, cho nên nếu chỉ coi
tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng những môi trường văn hóa -
xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không thể đạt được.
Lời phát
biểu của Hồ Chí Minh: “Văn hóa có liên lạc với chính trị rất mật thiết. Phải
làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải
sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Tâm lý của ta lại còn
muốn lấy tự do, độc lập làm gốc. Đồng thời, văn hóa phải làm thế nào cho quốc
dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng.
Với xã hội, văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già đến trẻ,
cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu cái nhiệm vụ của mình và biết hưởng cái
hạnh phúc của mình nên được hưởng. Số phận ta ở trong tay ta” vừa thể hiện rõ
quan điểm về chức năng của văn hóa, vừa đặt văn hóa vào định hướng phát triển
của xã hội, coi văn hóa không chỉ gắn với phát triển, là đối tượng và mục
tiêu của phát triển, mà còn gắn với hoạt động của mỗi con người. Theo Hồ Chí
Minh, văn hóa có thể giúp mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí; giúp bồi dưỡng
những tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp của con người; bồi dưỡng những
phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh, giúp con người hướng
đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân mình. Khi văn hóa có thể “vào sâu
trong tâm lý quốc dân”, “sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ”,
thì sẽ giúp cho “ai cũng hiểu cái nhiệm vụ của mình và biết hưởng cái hạnh
phúc của mình nên được hưởng”. Như vậy, không chỉ coi trọng vai trò quyết
định của kinh tế, chính trị tới văn hoá, Hồ Chí Minh còn đồng thời chỉ rõ vai
trò to lớn, sự tác động trở lại của văn hoá đối với kinh tế, chính trị và xã
hội, bởi văn hóa là cơ sở, động lực tinh thần cho sự phát triển bền vững mọi
mặt đời sống xã hội, cho sự tiến bộ của xã hội.
Với ý
nghĩa đó, theo Hồ Chí Minh cuộc cách mạng mà nhân dân ta phải tiếp tục tiến hành
khi cả nước thống nhất, non song liền một dải chính là đi lên chủ nghĩa xã
hội, là phải “thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành
kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực
khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc” và Người đã
nhấn mạnh: “Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” trong bản Di chúc lịch sử.
Xây
dựng văn hóa trong Đảng
Là người
sáng lập và rèn luyện Đảng ta, luôn đau đáu sự trăn trở làm sao phải xây dựng
và củng cố Đảng thật trong sạch, vững mạnh, thật sự xứng đáng là người lãnh
đạo, đày tớ trung thành của nhân dân, dễ hiểu tại sao trong bản Di chúc lịch
sử “để đời”, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại “trước hết nói về Đảng” mà cụ thể là về
văn hoá Đảng. Từ góc độ văn hóa, đoàn kết chính là giá trị, là sức mạnh và
cũng là hạt nhân quan trọng của văn hóa Đảng: “Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”, “nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một
dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành
lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái
đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đối với Hồ Chí Minh, văn
hóa Đảng chính là trí tuệ, lương tâm và sự trong sạch của Đảng, để Đảng trở
thành hình ảnh của phẩm giá, đạo đức con người Việt Nam. Trong xây dựng Đảng
và xây dựng văn hóa Đảng, điều cốt yếu chính là chủ nghĩa nhân văn, ý chí
phấn đấu cho sự giải phóng hoàn toàn và vì hạnh phúc con người của mỗi đảng
viên. Vì vậy, văn hóa Đảng muốn có được, trước hết thể hiện ở mỗi đảng viên
của Đảng. Trên tinh thần đó, để Đảng là đạo đức, là văn minh, trong Đảng
không thể tồn tại một bộ phận đảng viên chạy theo lợi ích cá nhân, phá hoại
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, mà Đảng phải gồm những đảng viên luôn
“xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Để làm được điều đó, “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” và mỗi cán bộ, đảng viên phải “thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
Đồng thời, Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách
mạng” cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Cụm từ “đạo đức cách mạng”
được sử dụng đến hai lần và cả hai lần đều được in nghiêng cho thấy sự quan
tâm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới vấn đề này.
Coi văn
hóa đạo đức là nội dung bên trong của lối sống, Hồ Chí Minh coi trọng việc
giáo dục, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Theo Người, một khi cán bộ,
đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng sẽ hướng lòng mình đến chí công vô tư,
sẽ đoàn kết và “giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản trước hết là ở giá trị đạo đức của nó, ở phẩm chất đạo đức
và nhân cách của những người cộng sản. Một nền văn hóa với những con người có
đạo đức, nhân cách, có lối sống cao đẹp, luôn chú trọng, thường xuyên tự phê
bình và phê bình trên cơ sở của tình đồng chí thương yêu lẫn nhau như Người
căn dặn thì những cái xấu, cũ kỹ, hư hỏng dù phải đấu tranh lâu dài cũng nhất
định sẽ bị quét sạch.
Quan tâm
đến con người với ý nghĩa là chủ thể sáng tạo của mọi giá trị văn hoá, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều tâm huyết chăm lo phần “công việc đối với con
người” và đây cũng là phần nội dung được viết dài nhất trong Di chúc. Trong
bản thảo tháng 5-1968, Người vạch ra những dự kiến về những công việc tiến
hành xây dựng đất nước sau chiến tranh, có tính đến từng đối tượng cụ thể:
thương binh, gia đình liệt sĩ, bộ đội, thanh niên xung phong, phụ nữ, nông
dân. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm
để ghi nhận sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh
thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một
phần xương máu của mình hay đối với cha mẹ, vợ, con của thương binh và liệt
sĩ, Người căn dặn “phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn”,
“phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói
rét”. Đối với những chiến sĩ trẻ tuổi và thanh niên xung phong ưu tú thì cần
cho đi học thêm các ngành, các nghề để đào tạo thành “đội quân chủ lực trong
công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Đối với phụ nữ,
“phải có kế hoạch thiết thực đề bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ” để ngày thêm
nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo... Đó là những
lời giản dị, súc tích, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc từng đối tượng và Người
đã đánh giá đúng tinh thần, thái độ và sự đóng góp của họ trong cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc.
Thấm
nhuần đạo lý văn hoá truyền thống của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả
nhớ kẻ trồng cây”, đồng thời cũng nhằm để “khoan thư sức dân, làm kế sâu dễ
bền gốc”, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị miễn thuế nông nghiệp
một năm cho đồng bào nông dân “để cho đồng bào hỷ hả, mát dạ, mát lòng, thêm
niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất” sau nhiều năm liên tục ra sức góp của, góp
người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc và thống nhất nước nhà. Ngay cả với những người được coi là nạn
nhân của chế độ xã hội cũ, Hồ Chí Minh khoan dung, đầy nhân ái cũng căn dặn
và mong muốn “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải
tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”. Quan điểm này mang
đậm chủ nghĩa nhân văn, đức hiếu sinh, cốt cách dân tộc Việt của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đồng thời cũng chứng tỏ, sự nghiệp cách mạng mà chúng ta tiến hành
mang đậm chiều sâu văn hóa, kết tinh những giá trị truyền thống của một nền
văn hiến đã được bồi đắp qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhằm “chống
lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Đó là
một cuộc cách mạng chính nghĩa và nhân văn, xuất phát từ lợi ích chính đáng
của nhân dân, hợp với lòng dân, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và
thực sự là cuộc hành trình đi đến những giá trị văn hóa đích thực nhất.
Xây
dựng văn hóa theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bốn mươi
lăm năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, đất nước, con người Việt Nam đã
có nhiều thay đổi. Trong hành trình hướng đến tương lai, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định thực hiện những căn dặn của
Người trong bản Di chúc, có thể thấy Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân
dân ta đấu tranh cách mạng, giành độc lập và thống nhất trọn vẹn cho đất
nước; tạo dựng hình ảnh một nước Việt Nam vững vàng, ổn định về chính trị,
vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới thành
công, đưa kinh tế phát triển, thực hiện an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo...
nhằm cải thiện một bước đáng kể đời sống vật chất - vǎn hoá của nhân dân, có
vị trí uy tín trên trường quốc tế ngày càng lớn, ngày càng đậm nét. Những kết
quả quan trọng đó không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta, khẳng định trí tuệ và bản lĩnh của Đảng ta, mà còn khẳng định
chúng ta đang đi theo đúng con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân
dân ta đã lựa chọn, nó còn cho thấy giá trị văn hóa lớn lao của sự kiên định
mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt,
thực hiện những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về văn hóa và Di chúc, nhất là sau 15
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhận thức về vai trò, vị
trí văn hóa trong Đảng, trong xã hội đã được nâng lên; chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về văn hóa đã lan tỏa sâu rộng
trong đời sống xã hội. Văn hóa được chú trọng và việc phát huy mọi nguồn lực
để đầu tư cho văn hóa cũng đã cho thấy sự gắn kết giữa phát triển văn hóa với
nhiệm vụ phát triển kinh tế và xây dựng Đảng. Vai trò của văn hóa ngày càng
thể hiện rõ và có tác động lớn trong đời sống kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phòng, xây dựng con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa.
Tuy
nhiên, cũng sau 45 năm thực hiện Di chúc - Cương lĩnh xây dựng đất nước sau
chiến tranh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh những thành tựu đạt được là
những khó khăn, thử thách không nhỏ: “Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp... Những hạn chế, yếu
kém trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã
hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi… Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định
chính trị - xã hội”(10). Cùng với đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên… đã và đang gây bức
xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà
nước, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Trước
thực trạng trên, thấm nhuần những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di
chúc, nhằm xây dựng và chỉnh đốn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp phải “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình… Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn
với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh
thần Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị. Thông qua đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng,
thiết thực đó, thông qua việc kịp thời biểu dương những tấm gương người tốt,
việc tốt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để nhân rộng những điển hình
tiên tiến, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”… góp phần đẩy lùi tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; xây dựng Ðảng ta ngày càng trong
sạch, vững mạnh. Đồng thời, thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về “Xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước”, cần quán triệt sâu sắc, coi văn hoá và con người là vấn đề trọng
tâm, phản ánh chất lượng và mục đích cuối cùng của sự tăng trưởng kinh tế
trong chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất
nước. Cùng với xây dựng con người, chú trọng giải quyết các mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, xã hội; giữa lợi ích của cá nhân
và lợi ích của cộng đồng; giữa lợi ích của con người và lợi ích của môi
trường; giữa lợi ích của hiện tại và lợi ích của tương lai, nhằm “xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện,
thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ,
tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã
hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của
phát triển”
MỘT SỐ CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
Báo cáo viên:LÊ HỮU ÁI
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà
Nẵng
Khi nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh, với tư cách là một bộ môn – Hồ Chí Minh học, đòi hỏi phải tuân
thủ một số nguyên tắc, phương pháp luận cơ bản. Trong giới hạn cho phép, bài
viết đề cập tới ba cơ sở phương pháp luận nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là
phương pháp hệ thống, phương pháp liên ngành và phương pháp thực tiễn trong
sự tương tác lẫn nhau.
1. Loài người tiến bộ
và nhân dân ta không hề nghi ngờ một hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành
trong các phong trào lớn của thế kỷ XX góp phần quyết định đưa dân tộc Việt
Nam tới độc lập dân tộc, thống nhất
đất nước, thực hiện dân chủ, giữ gìn hòa bình ở khu vực và trên thế giới, tạo
nên thời đại mang tên Người - thời đại Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một quá trình, tư tưởng Hồ Chí Minh là một giá trị, diện mạo của nó vừa rõ
nét, vừa tiềm ẩn. Do vậy, nhiều nhà nghiên cứu đề xuất nhiều quan điểm, cách
thức và phương pháp khác nhau để tiếp cận khai thác các giá trị của nó; chẳng
hạn đó là các phương pháp như phương pháp hệ thống, phương pháp liên ngành,
phương pháp thực tiễn, phương pháp lôgic - lịch sử, phương pháp so sánh …đó
là những cơ sở phương pháp luận quan
trọng để nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh. Xét về mặt lý thuyết, nó giúp cho chúng ta xây dựng một bộ môn khoa học
mới – Hồ Chí Minh học. Trong bộ môn mới này, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
cũng có thể nói cụ thể hơn là tư tưởng Hồ Chí Minh về con người chiếm một vị
trí nổi trội, tạo nên diện mạo hết sức độc đáo. Ở bài viết này tác giả chỉ
muốn khảo sát một vài cơ sở phương pháp luận khi Hồ Chí Minh tiếp cận nghiên
cứu về con người.
2. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng nhân
văn là nền tảng sâu xa nhất. Đó là chủ nghĩa nhân văn kết tinh từ ngàn đời
trong quá trình sinh sống, giữ nước và dựng nước của cả một cộng đồng người
gắn bó với nhau từ đời này sang đời khác, từ thế hệ nọ đến thế hệ kia cùng
nhau giải quyết các nhiệm vụ lịch sử để tồn tại. Nó khác với các tư tưởng
phân biệt giới tính, phân biệt thế hệ, phân biệt tầng lớp, phân biệt dân tộc
của Nho giáo. Nó không phải là tư tưởng từ bi, ở ẩn, tu nhân, xuất thế chỉ
nhận thức bản thân mình của Phật giáo. Nó cũng không phải là tư tưởng xa lánh
cỏi đời, bất cần thế tục của Lão giáo hay quá ưu tiên các điều kiện sản xuất
vật chất của các triết thuyết cùng thời.
Trong bài “Vĩ đại một
con ngưòi”, Giáo sư Trần Văn Giàu khi viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho
rằng: cái đặc sắc làm nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh đó là sự quan tâm đến con
người trong mọi hoạt động cụ thể của nhận thức và hành động của Hồ Chí Minh.
Ông viết: “Tầm cỡ một triết nhân chưa chắc ở chỗ giải quyết mối tương quan
giữa tồn tại và tư tưởng, ở chỗ thế giới ấy là thực hay ảo ảnh, là khả tri
hay bất khả tri, ở chỗ lựa chọn giáo điều hay điều mới lạ, mà chung quy ở mức
độ quan tâm đến con người đang sống trên trái đất này…. Nền tảng tư tưởng Hồ
Chí Minh như mọi người đều biết đã đặt cược trên sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội và giải phóng con người. Từ “Bản án chế độ thực dân Pháp”
đến “Tuyên ngôn độc lập” và từ “Tuyên ngôn đôc lập” tới “Di chúc”. Ở đâu Hồ
Chí Minh cũng coi và khẳng định trước hết là vấn đề con người.
2.1. Phương pháp hệ
thống hay quan điểm hệ thống có thể giúp ta dễ dàng phát hiện những tư tưởng
quan trọng của Hồ Chí Minh “Vì sự nghiệp trăm năm phải trồng người” tức là
các khía cạnh xã hội của con người, của sự quan tâm của cộng đồng đến cá
nhân. Tiếp cận hệ thống có thể tái hiện lên một quá trình tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục con người, về các biện pháp giáo dục con người, các quy
trình quản lý của xã hội đối với cá nhân. Song Hồ Chí Minh lại khẳng định
thêm rằng “Mỗi người đều có cá tính riêng, sở trường riêng, đời sống riêng
của bản thân và gia đình” . Rõ ràng, cho dù
là rất quan trọng, nhưng phương pháp hệ thống không phải là phương
pháp duy nhất tạo nên lý luận toàn diện về Hồ Chí Minh học. Tiếp cận hệ thống
có thể giúp ta nghiên cứu các tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất xã hội và bản
chất tự nhiên của con người.
Việc tìm kiếm một hình
thức tư duy lý luận có khả năng tạo ra một lý luận phát hiện đầy đủ hơn,
phong phú hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về con người sẽ góp thành một bộ phận hữu
cơ trong lý luận toàn diện về Hồ Chí Minh học. Nó vừa là sự tiếp cận hệ thống
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, vừa là sự tiếp cận của
nhiều phương pháp của các khoa học cụ thể khác. Con người, các tư tưởng từ
nó, về nó, cho nó là một thiên hà của các vấn đề. Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề
giải phóng con người, giáo dục con người, phát huy toàn bộ các năng lực và
thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của con người. Xung quanh các tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh nếu chỉ duy nhất hóa phương pháp hệ thống thì e rằng
khó có thể tiếp cận đầy đủ và toàn diện các vấn đề mà Người đã đề cập .
2.2 Đương nhiên việc
kết hợp giữa phương pháp hệ thống với liên ngành nhằm làm rõ tư tưởng Hồ Chí
Minh phải gắn với các mối quan hệ cụ thể, xác định phù hợp với nhiệm cụ đặt
ra mà tâm điểm là tạo ra một lý luận toàn vẹn về Hồ Chí Minh học. Mỗi bộ
phận, mỗi mối quan hệ, mỗi mặt trong hệ lý luận về Hồ Chí Minh học là những
“lát cắt” khác nhau và sự tái hiện lý luận về các mặt đó cũng như mối liên hệ
nội tại trong hệ lý luận ấy là của khoa triết học – nhân bản và nhiều khoa
học khác nhau.
Nói rằng cơ sở tư tưởng
Hồ Chí Minh xuất phát từ con người, từ hạnh phúc của con người do vậy nó mang
tính chất hệ tư tưởng khi xét nó là hệ thống lý luận, không có nghĩa là hệ lý
luận chỉ tiếp cận khía cạnh xã hội của
con người, có lúc Hồ Chí Minh nói rằng: “Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học
chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận” . Hoặc: “Nước độc lập mà
dân không được hạnh phúc, tự do thì chẳng có nghĩa lý gì” thì tư tưởng về xã hội, về cộng đồng, về thế
giới, về nhà nước của con người là vấn đề hạnh phúc của con người (được hiểu
một cách khá cụ thể và tường minh). Như vây, cần phải vạch ra được cơ sở lý
luận về xã hội, về hình thức cộng đồng của con người. Phải sét ở bình diện
đảm bảo hạnh phúc cho con người. Điều đó đảm bảo xác định mối quan hệ biện
chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân và cộng đồng. Ở Hồ Chí Minh
hai mặt đó vừa thống nhất vừa khác biệt.
2.3. Cùng với quan điểm
hệ thống trong quá trình xây dựng hệ thống lý luận về Hồ Chí Minh học, nhiều
người đã nhấn mạnh quan điểm phương pháp luận về thực tiễn trong nghiên cứu
di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Phải nói rằng đây là một quan điểm đúng đắn bởi
vì với Hồ Chí Minh lý luận phải đi đôi với thực tiễn, học phải gắn với hành
và do vậy nhiều lần Hồ Chí Minh đã giải quyết những vấn đề lý luận rất phức
tạp nhưng với tinh thần thực tiễn sáng tạo nó cho phát hiện chiều sâu, chiều
rộng của tư tưỏng Hồ Chí Minh cũng như các giới hạn của tư tưởng ấy bằng thực
tiễn hoạt động của dân tộc, của những nhóm xã hội và các nhóm xã hội ưu tiên.
Thông qua việc kiểm chứng bằng thực tiễn có thể làm rõ hơn tính hiện thực,
tính chân lý và sức mạnh của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh thường đề
cao lao động xem nó là nguồn sống, nguồn hạnh phúc và là nghĩa vụ vinh quang,
nhiều lần Hồ Chí Minh nói rằng: “Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất.
Văn hóa xa đời sống, xa lao động là văn hóa suông” . Như vậy, với Hồ Chí Minh
điều kiện vật chất giữ một vai trò quan trọng và ưu thế trong việc phát triển
xã hội phát triển nhân cách của con người là một tư tưởng nhất quán.
Lý luận về con người và
lý luận về lao động của Hồ Chí Minh đã hợp thành nền tảng tư tưởng Hồ Chí
Minh. Quan niệm của Người về tổ chức lao động, tổ chức xã hội cùng với lý
luận về đạo đức, pháp luật, tôn giáo, văn học nghệ thuật tạo nên nền tảng tư
tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm thực tiễn khi xem xét tư tưởng Hồ Chí Minh về
các quan hệ xã hội, về hệ thống kỹ thuật, về tổ chức lao động, về bản thân
con người, về quá trình lao động và trách nhiệm công dân, trách nhiệm đạo đức
trong lao động. Điều đó cho phép khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh coi lực
lượng sản xuất xã hội, hình thức tổ chức xã hội và hạnh phúc của con người là
có liên quan với nhau.
Quan điểm thực tiễn khi
xác lập mối quan hệ không thể phá vỡ giữa lý luận và thực tiễn để xem xét,
nghiên cứu bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời nó cũng nêu rõ tính đồng
đại và lịch đại trong tư tưởng của Người. Nó vừa xác lập năng lượng, các vùng
tiềm ẩn, diện mạo đích thực sức sống và các giới hạn của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu đi đến thống nhất rằng; cái cốt lõi của tư
tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam
3. Bản chất tư tưỏng
nhân văn của Hồ Chí Minh vì con người và giải phóng con người được xem như là
linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, nó không chỉ tác động chi phối các quan hệ
chính trị, kinh tế, xã hội mà điều quan trọng hơn, nó thấm vào mọi mặt của
đời sống xã hội, vào các quan hệ đạo đức, vào lý tưởng thẩm mỹ, vào quan niệm
hạnh phuc, niềm tin, hy vọng. Nhiều tư tưởng của Người đã tạo thành linh hồn
sống của rất nhiều cảm xúc đạo đức, chính trị và nghệ thuật xác lập các yếu
tố cơ bản của đời sống tinh thần xã hội Việt Nam. Do vậy, Đảng ta xác định
Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tinh thần của xã
hội là một tất yếu lịch sử.
RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG THEO QUAN ĐIỂM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Báo cáo viên: GS, TS. Mạch Quang Thắng
Bàn về cái gốc để phát
triển, hay triết lý phát triển trong hành động của Hồ Chí Minh, có ba vấn đề
đáng chú ý nhất trong việc rèn luyện đạo đức.
1. Quá trình rèn luyện
đạo đức phải được diễn ra suốt cả cuộc đời con người
Đạo đức tốt của một con
người không phải cứ tự nhiên mà có, nói như Hồ Chí Minh là nó không phải từ
trên trời rơi xuống, mà do tu dưỡng bền bỉ hằng ngày để phát triển, củng cố,
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Ở trong tù, ngày
rộng tháng dài, “một ngày tù bằng nghìn thu ở ngoài”, mất tự do, chịu nhiều
khổ ải, Hồ Chí Minh làm thơ (Ngục trung nhật ký), trong đó có một bài vận vào
cái chí khí của Người trong việc tự rèn luyện:
Văn trung mễ thanh
Mễ bị thung thi, hẩn
thống khổ,
Chí thung khi hậu, bạch
như miên;
Nhân sinh tại thế dã
giá dạng,
Khốn nạn thị nhĩ ngọc thành thiên.
Văn Ngọc – Văn Phụng
dịch là:
Nghe tiếng giã gạo
Gạo đem vào giã bao đau
đớn,
Gạo giã xong rồi trắng
tựa bông;
Sống ở trên đời người
cũng vậy,
Gian nan rèn luyện mới
thành công.
Cuộc sống của con người
không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Cả một cuộc đời lãnh tụ như Hồ Chí Minh
trước làm sao sau y như vậy. Trong những sự biến chính trị ở Liên Xô và các
nước XHCN ở Đông Âu những năm 80 và 90 của thế kỷ trước, thì ra, có nhiều
điều buộc chúng ta phải nghĩ suy về đạo đức của con người khi người ta ở vào
vị trí quyền lực cao chót vót. Khi đã có chức, có quyền mà ở vị trí thật cao,
thật trọng, lại được một “cơ chế” bao che, nâng đỡ, thì nếu không “giữ mình”
thì sẽ hư hỏng lúc nào không biết. Bảo rằng, luật pháp chưa đầy đủ, không
đúng. Bảo rằng, những quy định về kỷ luật chưa nghiêm, chưa chặt chẽ, không
đúng. Nhưng, những cái đó là cần mà chưa đủ. Cái thêm vào tổ hợp đó và là
quan trọng không kém, và mới đủ, là tự giác, tự rèn luyện. Người đứng vị trí
cao của quyền lực, nếu không như vậy, sẽ có lúc tự mình đứng trên luật pháp,
tự mình tách khỏi cộng đồng, không trở thành đày tớ thật trung thành của nhân
dân.
Hành động của không ít
người hư hỏng về mặt đạo đức không những có hại cho địa bàn nơi họ sống,
không những làm hỏng tập thể nơi họ công tác mà còn, và quan trọng hơn cả, là
nó làm thui chột và đổ vỡ cả chế độ chính trị.
Hồ Chí Minh là một
người trọn đời vì nước, vì dân, trọn đời có đạo đức trong sáng. Người ta hay
hư hỏng ở cái đoạn cuối đời. Còn đối với Hồ Chí Minh? Cuộc đời của Người là
trọn vẹn của cái chân, cái thiện, cái mỹ, không bị tha hoá, từ buổi thiếu
niên cho đến phút cuối cùng, từ lúc hàn vi với thân phận của một người dân nô
lệ, luôn luôn bị mật thám đế quốc theo dõi, bị tù, bị xử án tử hình vắng mặt
đến lúc đứng ở đỉnh tháp của quyền lực mà không bị quyền lực làm cho mờ mắt.
Mọi sự cám dỗ thường thấy của một con người đều tác động đến bản thân Hồ Chí
Minh như quyền lực, của cải…nhưng Hồ Chí Minh không hề bị suy xuyển.
Tỉnh dậy giữa hai cơn
đau tim trên giường bệnh những ngày cuối tháng 8 năm 1969, Hồ Chí Minh hỏi về
mực nước sông Hồng đến đâu rồi? Chả là cuối tháng 8 năm 1969, mực nước sông
Hồng lên cao, đã có kế hoạch chuyển Hồ Chí Minh đến huyện Ba Vì của tỉnh Sơn Tây (nay thuộc
tỉnh Hà Tây), nơi có địa hình cao hơn để đề phòng lúc Hà Nội có thể lâm vào
cảnh vỡ đê, lụt lội. Hồ Chí Minh kiên quyết không chịu dời đi nơi khác mà vẫn
ở Nhà 67. Hồ Chí Minh nói với những người xung quanh rằng, mình ở lại với
nhân dân thủ đô Hà Nội, không đi đâu cả, không thể bỏ nhân dân lúc có nguy cơ
bị cảnh vỡ đê, chịu lụt. Những ngày cuối đời của năm 1969 mưa ngập đất đầy
tiếng kêu của ễnh ương mùa lụt của đất trời Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ, Hồ
Chí Minh đã nói như thế, hành động như thế là do Người thực hành cái đạo gắn
bó tính mệnh của mình với tính mệnh của nhân dân. Người đã từng nói: “tiên
thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc như lạc”; hoặc “tiên thiên hạ
ưu, hậu thiên hạ lạc” (nghĩa là khổ trước thiên hạ và sướng sau thiên hạ).
Và, đã nói như thế thì Người thực hành đúng như thế.
Tỉnh dậy giữa hai cơn
đau tim khác, có lúc Hồ Chí Minh muốn nghe một làn điệu dân ca xứ Nghệ quê
nhà, muốn nghe một khúc dân ca xứ Huế, nơi Người từng gắn bó tuổi học trò
xuống đường đi tranh đấu cùng bà con chống thuế, nơi kinh đô thơ mộng ấy
Người có kỷ niệm buồn, một cú sốc lớn khi mẹ qua đời lúc mình mới lên 10
tuổi. Có lúc Hồ Chí Minh hỏi những người có mặt bên giường bệnh về việc chuẩn
bị khai giảng năm học mới cho các cháu học sinh đến đâu rồi? Cũng như thế,
ngày 30-8-1969, có lần tỉnh lại, Hồ Chí Minh hỏi các vị lãnh đạo Đảng và Nhà
nước có mặt trong phòng về việc chuẩn bị kỷ niệm Ngày lễ Quốc khánh 2-9.
Người đề đạt nguyện vọng bắn pháo hoa “cho nhân dân vui, để động viên tinh
thần nhân dân” trong ngày lễ Quốc khánh 2-9-1969, và nếu được thì bố trí cho
Người ra với đồng bào dăm mươi phút. Ngày đó, ngày 2-9-1969, lúc 9 giờ 47
phút, trái tim Hồ Chí Minh ngừng đập và Người thanh thản đi vào cõi vĩnh hằng.
Hà Nội không thể nào bắn pháo hoa “cho dân vui” được theo như mong muốn của
Hồ Chí Minh bởi đó chính là ngày tang.
Hồ Chí Minh hành đạo,
cái đạo “làm người” cho đến trọn vẹn cuộc đời. Mà không chỉ thế, trong Tài
liệu tuyệt đối bí mật (Di chúc), Người còn cố “can thiệp” để cho hậu thế xử
lý những điều, những việc thuộc về “việc riêng” của mình. Hồ Chí Minh nói:
“Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi” khi trả lời nữ phóng viên báo Granma
(Cuba) Mácta Rôhát ngày 14-7-1969. Hồ Chí Minh nói: “Những lúc tôi phải ẩn nấp nơi núi
non, ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì độc lập cho Tổ quốc, tự
do cho đồng bào”. Hồ Chí Minh nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ
quốc tôi, đấy là tất cả những gì tôi muốn, đấy là tất cả những gì tôi cần”.
Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh viết: “Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết, phấn đấu, xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,
và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Còn nhiều, còn nhiều
lời nói, câu viết của Hồ Chí Minh về vấn đề đó. Hồ Chí Minh đã nói, đã viết,
và tự bản thân mình “xắn tay áo” lên thực hành, kêu gọi, tổ chức những người
xung quanh thực hành.
Sự rèn luyện đạo đức là
tùy thuộc vào cái tâm, vào tinh thần tự giác của con người. Mà tinh thần tự
giác đó đòi hỏi phải được thực hành liên tục. Nó là năng lượng của cuộc sống,
thậm chí năng lượng đó có thể chuyển hoá sang người khác để bảo tồn và phát
huy.
2. Nói đi đôi với làm,
nêu gương đạo đức
Đã có người cho rằng,
học tập đạo đức Hồ Chí Minh khó quá. Học không phải là bắt chước. Tư tưởng Hồ
Chí Minh không những là nền tảng tư tưởng mà còn là kim chỉ nam cho hành động
nữa. Học đạo đức Hồ Chí Minh là tìm hiểu bản chất của vấn đề để vận dụng phù
hợp với hoàn cảnh cuộc sống. Chẳng hạn: học Hồ Chí Minh không có nghĩa là tất
cả mọi người phải đi dép lốp mà học đức tính giản dị của Người.
Người dân có cảm tình
với Đảng, với chế độ XHCN trước hết là qua gương sáng của cán bộ, đảng viên,
những gương đó có sức mạnh cảm hoá, đưa đến cho người ta niềm tin. Trong lúc
kêu gọi những người có ăn cứ 10 ngày nhịn một bữa, mỗi bữa một bơ để cứu giúp
những người đang bị đói ngay sau Cách mạng Tháng Tám, thì Hồ Chí Minh đã làm
gương. Kêu gọi mọi người ra sức chống hạn để cứu lúa, kể cả huy động mọi
người ở nông thôn bất kể ngày đêm tát nước, thì Hồ Chí Minh đi tát nước, đi
cấy lúa với máy cấy thí nghiệm, v.v. Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi một người dân
khoẻ mạnh thì cả dân tộc khoẻ mạnh và một trong những biện pháp để đạt được
yêu cầu đó là mọi ng¬ười phải thường xuyên tập thể dục, do đó Người kêu gọi
mọi người hằng ngày hăng hái tập thể dục. Người nói: “Tự tôi ngày nào cũng
tập”. Nói chuyện với cán bộ ở một trường huấn luyện (11-1945), Hồ Chí Minh
nói: “Phải làm gương cho đồng bào, phải siêng năng, hăng hái. Tôi lấy thí dụ
như trong việc cứu nạn đói, mình bảo người ta 10 ngày nhịn ăn một bữa mà
chính đến ngày nhịn, mình lại cứ chén tỳ tỳ thì nghe sao được. Đáng lý dân
nhịn một bữa mình nhịn hai bữa mới phải. Về việc khuyến nông cũng vậy, bảo
người ta đào đất trồng ngô, trồng khoai mà lúc người ta làm mình lại ngủ thì sao
được?…Miệng nói tay phải làm mới được”.
Trông vào việc làm của
Hồ Chí Minh, chúng ta thấy phản chiếu lai láng như hồn anh minh của một số vị
vua sáng láng triều Lý thế kỷ XI, XII như vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông…năm
nào cũng vậy, cứ đầu mùa thì đi cày ruộng tịch điền, khi đến vụ thu hoạch thì
đi thăm người dân gặt lúa để khuyến nông. Hồ Chí Minh có lẽ cũng tựa như vua
Trần Nhân Tông thời nhà Trần, năm 1313, khi nước sông Cái (sông Hồng) lên to
có nguy cơ vỡ đê, lụt lội, thì đã thân hành đi hộ đê, ông gạt bỏ lời can của
một quan ngự sử “Bệ hạ nên chăm lo sửa sang đức chính, đắp đê là việc nhỏ, đi
xem làm gì”, mà cho rằng bản thân mình làm vua mà thân chinh đi hộ đê lúc dân
gặp nạn lụt lội cũng là lo việc sửa sang đức chính vậy.
Hồ Chí Minh là người kỵ
giáo điều, là một con người luôn luôn canh tân. Đã có nhiều lần Người đề cập
vấn đề giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin. Nói chuyện với cán bộ của Ban Tuyên
huấn Trung ương Đảng năm 1968, Người nói: “Các chú dạy cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân về chủ nghĩa Mác – Lênin, chắc có nhiều người thuộc, nhưng các
chú có làm cho mọi người hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là thế nào không? Theo
Bác, hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin tức là cách mạng phân công cho việc gì, làm
Chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ. Không nên đào tạo ra
những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lênin nói thế kia,
nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy rác”. Hồ Chí
Minh cho rằng: “Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán
bộ, đảng viên ta mà giáo dục lẫn nhau, đó chính là một cách tuyên truyền,
giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin thiết thực nhất”. Cũng như vậy, Người nói:
“Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong
những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây
dựng con người mới, cuộc sống mới”.
Làm gương sáng cho
người khác soi, đó là một phương cách xử thế ở đời của Hồ Chí Minh. Nhiều cái
phản văn hoá hay là đạo đức giả thường là có “4 N”: a) Nói thì nhiều nhưng
làm thì ít; b) Nói thì hay nhưng làm thì dở; c) Nói để đấy rồi không làm gì
cả; d) Nói một đằng làm một nẻo.
Hồ Chí Minh cho rằng: ở
phương Đông và ở Việt Nam, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền. Cán bộ, đảng viên, những người có chức có quyền, nhất
là những cán bộ chủ chốt, nếu nêu một tấm gương sáng thì sẽ tạo ra một đời
sống văn hoá lành mạnh cho xã hội, còn ngược lại thì hậu quả sẽ khôn lường.
Hồ Chí Minh không dùng
lối “thị phạm”, tức là làm mẫu để dạy người khác. Hồ Chí Minh không “lên
lớp”, không “dạy” ai cả, mặc dù những câu, những bài Người viết, những lời
Người nói, những việc Người làm đều toát lên toàn bộ tính sư phạm của Người.
Tự lời ăn, tiếng nói, tự cái hành xử hằng ngày của Người chính là thân giáo,
là có ngôn, mà những ai có lòng cầu thị có thể soi vào đấy. Hồ Chí Minh soạn
bài giảng cho các lớp huấn luyện những người yêu nước Việt Nam những năm
1925-1927 ở Quảng Châu (Trung Quốc), sau này tập hợp in thành sách Đường cách
mệnh, đầu tiên Người quan tâm là giáo dục cho học viên về Tư cách của một
người cách mệnh gồm có 23 điều. Và, điều 10 trong 23 điều tư cách đó được ghi
trong cuốn Đường cách mệnh là: “Nói thì phải làm”.
Hồ Chí Minh cũng như
bao con người khác, nghĩa là cũng có những sở thích riêng. Xã hội có bao
nhiêu con người thì có bấy nhiêu sở thích. Mỗi người đều có những sở thích
riêng hợp lại, thống nhất lại trong một xã hội. Đó là sự thống nhất của cái
đa dạng. Mà như thế mới có một xã hội năng động và phát triển. Không biết từ
bao giờ, Hồ Chí Minh nghiện thuốc lá. Đến năm 1965, Hồ Chí Minh chấp hành
quyết định của bác sĩ là bỏ thuốc lá. Đến tháng 3 năm 1968, Hồ Chí Minh viết
một bài thơ bằng chữ Hán:
Vô đề
Tam niên bất ngật tửu
xuy yên
Nhân sinh vô bệnh thị
chân tiên
Hỷ kiến nam phương liên
đại thắng
Nhất niên tứ quý đổ
xuân thiên
Nhà thơ Khương Hữu Dụng
dịch:
Không đề
Thuốc kiêng rượu cữ đã
ba năm
Không bệnh là tiên
sướng tuyệt trần
Mừng thấy miền Nam luôn
thắng lớn
Một năm là cả bốn mùa
xuân.
3. Xây dựng môi trường
văn hoá đạo đức trong sạch
Môi trường đạo đức hiện
đang bị ô nhiễm ở lĩnh vực này, lĩnh vực nọ. Ô nhiễm đến mức độ nào? Môi
trường tự nhiên bị ô nhiễm, người ta có thể dùng máy để đo, cũng có thể cơ
thể con người chúng ta cảm nhận được. Nhưng, môi trường đạo đức nếu bị ô
nhiễm thì đo thế nào? Có thể thấy:
Một, “tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá
nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công
chức diễn ra nghiêm trọng…”. Đây chính là nhận định của Đại hội X (4-2006)
của Đảng. Cơ chế mới đã khơi dậy sự năng động của xã hội trong các lĩnh vực
nhưng cũng phần nào chưa kiểm soát được một cách chắc chắn những cái ác, cái
xấu. Những tệ nạn xã hội vẫn đang phát triển. Đồng tiền có sức mạnh ma quái
đang làm hỏng nhiều cán bộ, đảng viên và làm hỏng các chuẩn mực quan hệ ứng
xử của con người.
Cũng tại Đại hội X,
phần Báo cáo về công tác xây dựng Đảng, còn viết: “Một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất
và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý
tưởng; một số ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, nói và làm trái với quan
điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng,
vi phạm pháp luật của Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng”. Đáng chú ý là lần đầu tiên
trong một văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, có ghi: “Vẫn còn
tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thoái hoá
về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra
nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan
công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh
nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
Đảng”[5]. Quá trình này chưa khắc phục được nhiều, nhất là các kiểu “chạy”,
nhưng khắc phục ra sao thì vẫn đang ở phía trước. Đó là sự nhức nhối về môi
trường đạo đức “có vấn đề”.
Hai, tệ nghiện hút ma
tuý diễn ra nghiêm trọng và có chiều hướng phát triển mạnh trong xã hội Việt
Nam. Nghiện hút ma túy đi liền và tạo ra hệ lụy với bao tệ nạn khác. Xã hội
sẽ bị băng hoại về tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần, nhất là đạo
đức, lối sống, trong số đó đáng lo ngại là tầng lớp thanh niên, lực lượng chủ
công xây dựng một đất nước phát triển. Đây là một chỉ số đo mà đáng báo động
về môi trường đạo đức của xã hội Việt Nam hiện đại.
Ba, vấn đề trật tự, an
toàn xã hội cũng ở vào tình trạng “có vấn đề”. Làm sao thật yên tâm khi đi ra
đường, nhất là chỗ vắng. Và, đặc biệt là tai nạn giao thông. Nhìn ở góc độ
văn hoá đạo đức, thì vấn nạn giao thông là một biểu hiện rõ nét của sự suy
thoái đạo đức.
Đó là ba điều “thấy”
của chúng ta khi đề cập vấn đề này. Có thể còn nhiều biểu hiện khác nữa.
Chúng ta không nhìn môi trường đạo đức ở Việt Nam qua lăng kính màu đen.
Đương nhiên, những mảng sáng vẫn có nhiều. Nhưng, thực sự chưa yên tâm.
Xây dựng đạo đức trong
môi trường như thế khó khăn hơn rất
nhiều. Trách nhiệm làm cho môi trường đạo đức trong sạch không phải của riêng
ai mà là của tất cả mọi người, của cả hệ thống chính trị, nhưng trước hết và
cơ bản nhất là của từng gia đình. Trong xây dựng môi trường đạo đức, theo Hồ
Chí Minh, rõ nhất là chú trọng những vấn đề sau đây:
- Sống, làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật.
- Tôn trọng và phát huy
những truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục.
- Tạo ra một cách
thường xuyên tinh thần đề cao cái đẹp, cái tốt; lên án cái xấu, cái ác và
khuyến khích mọi người làm việc thiện, nhà nhà làm việc thiện.
- Kết hợp chặt chẽ hơn
nữa giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc xây dựng môi trường đạo đức
mới.
- Giải quyết đồng bộ
tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, làm cho đất nước Việt Nam
phát triển nhanh và bền vững.
Hồ Chí Minh thường chú
ý đến việc khơi dậy cái thánh thiện của con người. Hồ Chí Minh hoá giải để
chuyển hoá từ cái xấu thành cái tốt của người khác một cách có hiệu quả. Hồ
Chí Minh luôn luôn tìm chữ “đồng” trong sự khác biệt (Sự khác biệt thì ai,
cộng đồng nào và lúc nào chả có). Người rất chú ý nhân lên cái tốt, cái đẹp
mà những cái tốt, cái đẹp đó ở ngay trong mỗi người, trong mỗi cộng đồng dân
cư, ở ngay bên cạnh, ở chung quanh chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Cho
nên, Người đã có ý kiến biên soạn và xuất bản sách “Người tốt việc tốt”.
Người còn có ý kiến đối với loại sách này giá bán rẻ thôi để nhiều người mua,
khổ sách vừa thôi để người ta dễ bỏ túi. Đầu tháng 6 năm 1968, trước khi qua
đời hơn 1 năm, Hồ Chí Minh làm việc với một số cán bộ của Ban Tuyên huấn
Trung ương Đảng về việc biên soạn và xuất bản loại sách này. Người quan niệm:
từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành
sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả. Một pho tượng
hay một lâu đài cũng phải có cái nền rất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng
người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cái nền. Như
thế là chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc. Người tốt việc tốt nhiều lắm, ở
đâu cũng có. Lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên để
giáo dục lẫn nhau còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo dục quần chúng
rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn.
Không hiểu sao bây giờ
chúng ta chưa chú ý tiếp tục biên soạn và xuất bản loại sách này. Thấy trong
các báo viết về vụ án nhiều quá. Thấy sách in lậu, xuất bản lậu về mê tín dị
đoan nhiều quá.
Cuộc sống của mỗi người
chính là một yếu tố cấu tạo nên cuộc sống của xã hội. Mà đứng về khía cạnh
văn hoá mà nói thì mỗi cá nhân lại là kết quả của một quá trình giáo dục hàng
ngày của tất cả các tổ chức trong xã hội. Chúng ta không chờ có một môi trờng
tốt rồi mới xây dựng đạo đức mà đó là cả một quá trình vừa xây, vừa chống,
không thụ động. Và chỉ số phát triển của mỗi một dân tộc, phải chăng cần nhìn
vào môi trường đạo đức nữa, nơi mà ở đó mỗi một con người, mỗi một cộng đồng,
mỗi một dân tộc đều có cơ hội, điều kiện để tự do phát triển vươn tới cái
chân, cái thiện, cái mỹ chứ không chỉ là nhìn vào chỉ số tăng trưởng kinh tế.
. Đó là tất yếu của cuộc sống. Nhưng, có những giá trị bền lâu, chúng như
những viên ngọc mà chúng ta phải giữ gìn, luôn mài sáng nó lên. Hồ Chí Minh
chính là người đưa ra thông điệp đó, thông điệp khuyến khích mọi người vươn
tới những điều thiện, mỹ.
TÍCH HỢP VĂN HÓA CHÍNH TRỊ, NÉT ĐẶC SẮC
TRONG QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA HCM
Báo cáo viên: Đại tá, PGS, TS Văn Đức Thanh
Kể từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam
năm 1858, phong trào Cần vương và các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp của nhân dân
ta diễn ra ác liệt nhưng đều dẫn đến thất bại. Nước ta rơi vào ách đô hộ kéo
dài hơn tám mươi năm của chủ nghĩa thực dân Pháp. Một chế độ xã hội đặc biệt
được thiết lập - xã hội thuộc địa nửa phong kiến; trong đó, sự suy tàn của
chế độ phong kiến và sự xâm thực của chủ nghĩa thực dân diễn ra đồng thời.
Thái độ của các tầng lớp nhân dân trong xã hội không phải hoàn toàn cam chịu,
song những đề xuất của các nhà yêu nước đương thời đều rơi vào tình trạng bế
tắc
Đối với các nhà yêu nước theo lập trường phong kiến,
do thái độ chính trị xã hội của giai cấp phong kiến Việt Nam là bạc nhược,
cùng với quá trình phân hoá ngay trong giai cấp phong kiến tất yếu diễn ra,
nên cách thức tìm đường cứu nước không tránh khỏi lập trường hèn yếu về chính
trị. Những sĩ phu yêu nước nổi tiếng như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… tuy
mang nặng trách nhiệm trước dân tộc, song giải pháp cơ bản của các vị vẫn là
cải lương. Rõ ràng là, dựa trên nền tảng hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến
lỗi thời thì chắc chắn không thể đối phó thắng lợi với sức mạnh của thực dân
Pháp dựa trên nền tảng một hình thái kinh tế - xã hội đã vượt xa. Những lãnh
tụ của phong trào nông dân tuy có nhiệt tình hăng hái nhưng không có hệ tư
tưởng độc lập. Người nông dân có nguyện vọng và sẵn sàng hy sinh để đấu tranh
giải phóng dân tộc, song họ chỉ trở nên có quyết tâm cao và có sức mạnh to
lớn khi được lãnh đạo bởi đường lối cách mạng đúng đắn, khoa học.
Giai cấp tư sản dân tộc là con đẻ của chính sách
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, phát triển què quặt, mất cân đối, còn
bị tư sản Pháp và tư sản mại bản chèn ép, hầu như không có quyền lực chính
trị. Trong bối cảnh ấy, giai cấp tư sản Việt Nam không thể định ra đường lối
chính trị đúng đắn. Điển hình là tổ chức chống Pháp của Nguyễn Thái Học với
khởi nghĩa Thái Nguyên, dù gây tiếng vang lớn, nhưng chỉ thành nhân chứ không
thể thành công.
Đỉnh điểm của sự phân hoá xã hội - giai cấp nước ta
trong điều kiện xâm thực của chủ nghĩa thực dân là sự ra đời của giai cấp
công nhân. Sự ra đời và lớn mạnh của giai cấp công nhân dứt khoát dẫn đến
những điều kiện và tạo ra nhân tố cơ bản để chặn đứng sự xâm thực của chủ
nghĩa thực dân. Hơn thế, đây còn là nhân tố quyết định sự cáo chung của cả
chế độ thuộc địa nửa phong kiến đã tồn tại ở Việt Nam gần một thế kỷ.
Với hoàn cảnh lịch sử đặc biệt
trên, thì con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam, xét theo lôgich của nó,
chắc chắn phải là cuộc cách mạng có thể kết hợp được giữa nhiệm vụ giải phóng
nhân dân lao động khỏi ách áp bức bất công với nhiệm vụ giành độc lập tự chủ
cho dân tộc, giữa quá
trình đoạn tuyệt hoàn toàn với chế độ phong kiến với quá trình chống lại sự
xâm thực của chủ nghĩa thực dân một cách triệt để. Đó chỉ có thể là cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân và chính đảng của nó lãnh đạo.
Tuy nhiên, không phải bất cứ ai, dù là rất lỗi lạc, cũng có thể tìm ra con
đường ấy.
Do vậy, nét đặc sắc trước hết trong quá trình tìm
đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là định hình mục tiêu cần phải đến.
Với Người, mục tiêu lúc đầu chắc chắn vẫn là tìm đường cứu nước, con đường
giải phóng dân tộc. Song chính sự tích hợp văn hóa chính trị đã làm chuyển
hóa trong nhận thức của Người để đi đến kết luận: Muốn cứu nước, giải phóng
dân tộc, không còn con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Đi từ
Đông sang Tây, ngẫm từ cổ chí kim, Người đã gắn mục tiêu cứu nước với mục
tiêu cứu dân, không chỉ là dân tộc được độc lập, tự do mà còn là nhân dân
được ấm no, hạnh phúc. Vì thế, con đường cứu nước không chỉ đơn thuần là một
cương lĩnh chính trị mang tính bao quát “dân tộc độc lập”, mà còn trở thành
một nhu cầu rất sát sườn với các lực lượng cách mạng “người cày có ruộng”. Ở
đây rõ ràng có sự tích hợp văn hóa giữa “từ, bi, hỉ xả” của Đức Phật với “bác
ái, cứu độ” của Giê su, “tự do, bình đẳng” của Linh Côn, “dân tộc độc lập,
dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” của Tôn Dật Tiên…
Nhờ định hình được mục tiêu cứu nước phải gắn chặt,
không thể tách rời mục tiêu cứu dân mà khi Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp được Luận
cương của V.I.Lênin đã hầu như ngay lập tức định hình con đường đi của cách
mạng Việt Nam. Người khẳng định: Lúc này học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chắc chắn nhất là chủ nghĩa Lênin. Điều thú vị là ở chỗ tại
thời điểm lịch sử ấy, không ít nhà nghiên cứu, nhà lý luận đương thời rất tâm
đắc với lý luận đấu tranh giai cấp, đến mức tuyệt đối hóa nó, khước từ các
khẩu hiệu chính đáng của đấu tranh dân tộc. Song, Người thì không phải như
vậy, mà đấu tranh giành lợi quyền cho giai cấp luôn phải gắn liền với đấu
tranh giành lợi quyền cho dân tộc; nước được hưởng tự do, độc lập mà dân
không được hưởng ấm no, hạnh phúc thì không có nghĩa lý gì.
Không chỉ vượt hẳn lên các nhà yêu nước đương thời
trong xác định mục tiêu cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn vượt hẳn lên trong
xác định đúng đắn lực lượng, con đường, biện pháp cách mạng. Và ở góc độ này,
có thể thấy sự tích hợp văn hóa chính trị trong quá trình tìm đường cứu nước
của Người lại ngời lên sức sáng tạo vĩ đại.
Một trong những bài toán mà bất cứ nhà
chiến lược cách mạng nào cũng buộc phải giải đáp là cuộc cách mạng ấy do ai
tiến hành, ai là lực lượng căn bản, ai là đồng minh, ai là lực lượng cần
trung lập hóa, và đặc biệt, ai là người nắm ngọn cờ lãnh đạo. Trên thực tế,
phong trào Cần vương lúc đó kêu gọi toàn dân kháng Pháp (mà chủ yếu là nông
dân), do giai cấp quý tộc phong kiến đứng lên nắm ngọn cờ lãnh đạo. Các phong
trào kháng Pháp của giai cấp nông dân tự dựng ngọn cờ đã được thực hiện như
khởi nghĩa Yên Thế, song cũng không thoát khỏi ý thức hệ phong kiến. Vào
khoảng đầu thế kỷ XX, nhiều luồng gió mới của phong trào yêu nước xuất hiện,
nhưng việc xác định lực lượng vẫn bế tắc. Việt Nam Quốc dân Đảng chủ trương
dựa vào lực lượng binh lính để tiến hành ám sát, bạo động. Các nhà chí sĩ như
cụ Phan Bội Châu chủ trương dựa vào viện trợ từ bên ngoài để mong tìm cải
cách, khi thì tìm đến Trung Hoa dân quốc, lúc thì trông chờ vào Nhật, thậm
chí tính đến việc liên lạc với các nước châu Âu. Còn cụ Phan Chu Trinh thì
lại chủ trương dựa luôn vào Pháp, tiến hành đấu tranh nghị trường theo phương
châm “Pháp - Việt đề huề” để cải thiện dân sinh, đòi lại tự chủ… Đương nhiên,
không thể phủ nhận vai trò của các lực lượng ấy, nhưng như thế chưa đủ để
thực thi một chiến lược thực sự nhằm giải phóng dân tộc.
Khác hẳn với các vị tiền bối cũng như những nhân vật
lịch sử đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ đầu đã chủ trương dựa hẳn
vào nhân dân. Người khẳng định trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân;
nhân dân là người cần được giải phóng, và nhân dân Việt Nam cũng chính là lực
lượng căn bản đứng lên tự giải phóng. Và điểm đặc biệt nổi trội của Người,
đồng thời thể hiện sự tích hợp văn hóa sâu sắc trong quá trình tìm đường cứu
nước của Người, chính là xác định được vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân, cùng hệ tư tưởng cách mạng của giai cấp ấy và chính đảng của nó. Cũng
như giai cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy
nhất có đầy đủ khả năng tập hợp và lãnh đạo cách mạng. Điều đó được quy định
một cách tất yếu từ bản chất chính trị của giai cấp công nhân. Song, trong
bối cảnh giai cấp công nhân Việt Nam lúc đó mới đang từng bước hình thành, số
lượng chưa lớn, “thâm niên” chưa nhiều, thì không phải bất cứ ai cũng “đọc”
ra vai trò lịch sử của nó. Chỉ với một tầm nhìn vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí
Minh, cùng sự tích hợp văn hóa giữa truyền thống thân dân trong lịch sử dân
tộc với lý luận cách mạng tiên tiến của thời đại là chủ nghĩa Mác - Lênin,
thì giai cấp công nhân Việt Nam mới được nhìn nhận đúng với tư cách của mình.
Vấn đề lực lượng cách mạng không dừng lại ở sự khẳng
định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, mà còn là sự nhấn mạnh vai trò
động lực cách mạng của các tầng lớp nhân dân lao động khác, trong đó khối
liên minh công nông làm nền tảng. Tuy nhiên, lực lượng cách mạng Việt Nam,
theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, còn được mở ra rất rộng: công - nông
- binh - trí - thương, tức là bao gồm tất cả những người Việt Nam yêu nước.
Vai trò của phong trào yêu nước Việt Nam cũng mang tính quyết định không kém
so với vai trò của phong trào công nhân, đồng thời tạo nền tảng xã hội rộng
lớn của phong trào công nhân, cùng thể hiện tính nguyên tắc bất di bất dịch của
nhu cầu giải phóng dân tộc với nhu cầu giải phóng giai cấp. Chính nhờ quan
điểm đúng đắn này của Người nên phong trào công nhân Việt Nam gắn liền với
phong trào yêu nước Việt Nam, khi tiếp nhận được lý luận cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin tất yếu hình thành nên chính đảng cộng sản. Đồng thời,
đường lối cứu nước do Người tìm ra trở thành đường lối cách mạng đúng đắn duy
nhất phù hợp với điều kiện nước ta.
Xác định con đường, biện pháp cách mạng là biểu hiện
tập trung nhất, đồng thời là tiêu chí quan trọng nhất thử thách tính đúng đắn
của một học thuyết cách mạng, của cả một phương lược cứu nước. Bởi lẽ, cách
mạng không chỉ là khẩu hiệu, mà chính là phương châm hành động. Trước và cùng
thời với Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nhà yêu nước khác cũng đã dự lập nhiều con
đường, cách thức hành động khác nhau. Khi tiếng súng kháng Pháp của phong
trào Cần vương và khởi nghĩa nông dân thưa dần, nhiều cách thức mới đã được
thử nghiệm: tổ chức đầu độc binh lính Pháp như vụ Hà Thành đầu độc, tổ chức
đánh úp quân Pháp như vụ bạo động của nghĩa quân Vương Quốc Chính, tổ chức ám
sát những tên thực dân đầu sỏ như vụ ném bom Sa Điện, vụ ném tạc đạn khách
sạn Con Gà Vàng, vụ ám sát trùm mộ phu Ba-danh… Nhưng đó đều không phải là
giải pháp cơ bản. Và thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc
dân Đảng tiến hành chính là dấu chấm hết cho những nỗ lực kiểu cũ của phong
trào yêu nước. Điều đó đòi hỏi có sự tìm tòi mới, và một trong những hướng đi
mới chính là vận động thanh niên xuất dương tìm đường cứu nước.
Tuy nhiên, đi tới đâu mà học hỏi - đó lại là vấn đề
cực kỳ quan trọng. Sự trỗi dậy đương thời của Nhật Bản dưới triều đại Minh
Trị Thiên Hoàng cùng với tiếng vang của cách mạng Tân Hợi (Trung Hoa Dân
Quốc) đang có sức hút lớn. Theo đó, phong trào Đông Du cùng các tổ chức Đông
Kinh nghĩa thục, Việt Nam Quang phục hội do cụ Phan Bội Châu chủ xướng không
phải là những xu hướng không có lý. Tuy nhiên, với sự nhìn nhận của người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, thì như vậy vẫn chưa đủ sức thuyết
phục. Người cho rằng cần phải đến thẳng nước Pháp cùng các nước đế quốc thực
dân, phải tham khảo rất nhiều cuộc cách mạng ở nhiều nước khác nữa - những
đất tự do, những trời nô lệ - thì mới mong tìm ra những câu trả lời thỏa
đáng. Đây là một nét đặc sắc khác trong quá trình tìm đường cứu nước của
Người, đồng thời là tiền đề để Người thực hiện một quá trình tích hợp văn hóa
chính trị vĩ đại.
Và chính từ quá trình tích hợp văn hóa chính trị vĩ
đại ấy của Người, chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam do Người sáng
lập đã tìm ra, tìm đúng con đường, biện pháp cách mạng: đó là đường lối đấu
tranh giành độc lập dân tộc gắn với giải quyết các vấn đề xã hội và dân chủ,
dân sinh, bước đầu là "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"[1][1]. Trải qua thực tiễn đấu tranh, Lãnh tụ
Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công việc xác định con đường kết hợp giữa
giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc, giữa cứu dân, cứu nước với cách
mạng vô sản và đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng đường lối trong lịch sử dân
tộc Việt Nam.
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG VĂN
HOÁ TRONG ĐẢNG HIỆN NAY
Báo cáo viên: Hà Đăng
1 - Vị trí của vấn đề
đạo đức trong văn hóa nói chung
Văn hóa, theo định nghĩa chung
nhất, là những giá trị vật chất và tinh thần mà loài người sáng tạo nên trong
tiến trình lịch sử. Còn theo cách hiểu thông thường nhất, đó là toàn bộ đời
sống tinh thần của xã hội, bao gồm cả tư tưởng xã hội, tri thức xã hội, đạo
đức xã hội, đời sống và lối sống xã hội...
Không phải đến bây giờ, mà ngay từ lâu, khi Đảng ta mới thành lập và khi nhà nước cách mạng mới ra đời, Bác Hồ đã khẳng định rằng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, "văn hóa soi đường cho quốc dân đi". Có nghĩa, đạo đức chỉ là một bộ phận của văn hóa chứ không phải là toàn bộ nền văn hóa. Tuy nhiên, đó là bộ phận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi lẽ, khi xem xét trình độ văn hóa của một xã hội, người ta không thể không nói đến con người trong xã hội, mà nói đến con người thì không thể không nói đến đạo đức. Tư tưởng xã hội và đạo đức xã hội đều có vai trò quyết định đối với hành vi của con người trong xã hội. Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc sống và hành động được dư luận xã hội thừa nhận. Những tiêu chuẩn, nguyên tắc đó quy định, điều chỉnh hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Như vậy, đạo đức cũng chính là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đó mà có. Trong các quan hệ xã hội, những vấn đề thuộc về dân tâm, dân ý, dân trí, dân quyền, và dân sinh ..., đều thuộc về và là sự biểu hiện của văn hóa một xã hội, mà mức độ biểu hiện cao hay thấp tùy thuộc một phần quan trọng vào đạo đức.
2 - Vị trí của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
Đại
hội IX của Đảng ta đã đưa ra một mệnh đề cấu thành định nghĩa rất chuẩn xác
về tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam". Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cần được nghiên cứu không phải dưới
góc độ những ý kiến, những suy nghĩ riêng lẻ, cụ thể, mà trong sự tổng hợp có
tính hệ thống, tức là nghiên cứu dưới góc độ một học thuyết chính trị - cách
mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận của tư tưởng văn hóa Hồ Chí
Minh. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một bộ phận của tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa lại là một
bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm
gương tiêu biểu, một mẫu mực tuyệt vời về đạo đức, không chỉ đạo đức của con
người xã hội mà còn là đạo đức của một lãnh tụ cách mạng, suốt đời hy sinh,
phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xã hội, vì
hạnh phúc của nhân dân. Tuy nhiên, nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
không chỉ là nghiên cứu những phẩm chất cao quý thể hiện trong cuộc sống của
Người, mà còn là nghiên cứu những quan điểm của Người về đạo đức, những quan
điểm đó đã, đang và sẽ còn chỉ đạo dài lâu cho sự nghiệp của Đảng ta xây dựng
văn hóa dân tộc nói chung và xây dựng văn hóa trong Đảng nói riêng.
Xuyên suốt các tác phẩm của Người, từ "Đường Cách mệnh" (1927), "Sửa đổi lối làm việc" (1947), "Cần, kiệm, liêm, chính" (1949) cho đến "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" (1969) và bản Di chúc của Người (1969), ta thấy toát lên tinh thần và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
Khái niệm đạo đức, được Hồ Chí
Minh tập trung đề cập trong các tác phẩm của Người là đạo đức của xã hội mới,
cao hơn nữa là đạo đức cách mạng, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Những phẩm
chất đạo đức cao quý chung nhất, cơ bản nhất mà Người nêu lên đối với cán bộ
cách mạng:
Một là: trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Không phải một lần mà rất nhiều lần, không phải đối với một số đối tượng nhất định mà đối với rất nhiều đối tượng khác nhau, Người luôn luôn nhắc nhở rằng, điều chủ chốt nhất của đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, là trung với nước, hiếu với dân.
Hai là:
nhân, nghĩa, trí, dũng. Nhân là thật thà yêu thương, giúp đỡ đồng chí
và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại
đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn sàng chịu cực khổ trước mọi người,
hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không ngại cực
khổ, không sợ uy quyền. Nghĩa là ngay thẳng, không có tà tâm, không
làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Trí là đầu óc trong
sạch, sáng suốt, dễ hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng, biết xem người, xét
việc,... Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm, thấy
khuyết điểm có gan sửa chữa; cực khổ khó khăn có gan chịu đựng; có gan chống
lại vinh hoa phú quý không chính đáng; nếu cần, có gan hy sinh cả tính mạng
mình...
Ba là: cần, kiệm, liêm, chính. Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm; thấy rõ lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta... Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của nước, của bản thân mình, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù... Liêm là luôn luôn tôn trọng, gìn giữ của công và của dân; phải trong sạch, không tham lam; không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình... Chính "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa chữa điều dở... Đối với người thì không nịnh hót cấp trên, không xem khinh người dưới; luôn luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà... Cần, kiệm, liêm, chính luôn luôn đi liền với chí công, vô tư, tức là hết lòng chăm lo công việc chung, không tơ hào, tư lợi.
Trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí,
dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư đều là những khái niệm vốn có
từ Nho học và đạo đức từ lâu đời của ông cha ta, song đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh đổi mới và phát triển, thậm chí có những khái niệm đổi mới hẳn về nội
dung, như xưa kia là trung với vua, hiếu với cha mẹ, nay là trung với nước,
hiếu với dân. Do đó, những phẩm chất đạo đức được Người nêu lên chính là
những phẩm chất của đạo đức mới, của con người mới và nền văn hóa mới. Nó là
sự kết hợp tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân với truyền thống đạo
đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa đạo đức của nhân loại.
Đạo đức cách mạng của cán bộ,
đảng viên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn có tầm sâu rộng hơn, vượt qua
khuôn khổ quốc gia để tạo nên sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, xem "bốn phương vô sản đều
là anh em"...
3 - Tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay
Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991) của Đảng ta nêu rõ rằng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc là một trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng yêu cầu: đưa các
nhân tố văn hóa, tinh thần thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, ghi rõ: "Để đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng về văn hóa, phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà
nước..." và khẳng định rằng: "Từ nay đến năm 2000, đặt trọng tâm
vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành
mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và nhà nước, trong
các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình". Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng một lần nữa yêu cầu: "Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân". Kết luận của Hội
nghị Trung ương 10, khóa IX, nhấn mạnh: Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống lành mạnh trong xã hội,
trước hết là trong các tổ chức đảng và nhà nước. Trong Diễn văn đọc tại Lễ kỷ
niệm 75 năm Ngày thành lập Đảng vừa qua, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cũng yêu
cầu phải phấn đấu để mỗi tổ chức đảng và đoàn thể, mỗi cơ quan nhà nước đều
là "một tấm gương văn hóa trong xã hội".
Nhắc lại các nghị quyết nói trên
để thấy rõ tính bức bách của nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng hiện nay;
cũng là để thấy rõ rằng muốn xây dựng được tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời
sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết phải xây dựng được các phẩm
chất đó trong các tổ chức của Đảng và bộ máy của Nhà nước...
Đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức mà chúng tôi vừa đề cập, ta càng thấy rõ vai trò quan trọng
biết dường nào của đạo đức cách mạng trong việc xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung, và xây dựng văn hóa trong Đảng nói
riêng. Không phải ngẫu nhiên trong Di chúc Người nói về Đảng và đặc biệt nhấn
mạnh vấn đề đạo đức: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".
Những lời dạy của Bác Hồ về đạo
đức cách mạng, đối với Đảng ta, đối với mỗi cán bộ, đảng viên, ngày nay vẫn
còn mang tính thời sự nóng hổi; nhất là những phẩm chất trung với Đảng, trung
với nước, hiếu với dân, về cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, về nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, về đảng viên đi trước, làng
nước theo sau... là không bao giờ cũ. Nếu có cái gì gọi là cũ thì đó chính là
nhận thức của chúng ta về các lời dạy của Bác không đến nơi, đến chốn, không
thật đầy đủ và nhuần nhuyễn, nhất là chúng ta nói mà không đi đôi với làm,
hoặc nói nhiều làm ít, khiến cho đời sống văn hóa trong Đảng, nhất là đời
sống về đạo đức, có những biểu hiện suy thoái nghiêm trọng. Cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2),
khóa VIII, đòi hỏi phải khắc phục bằng được tình trạng suy thoái về tư tưởng,
đạo đức và lối sống trong cán bộ, đảng viên, đặc biệt là tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, một căn bệnh nguy hiểm đang đục khoét cơ thể sống
của Đảng ta. Trong cuộc chiến đấu sinh tử này, mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta
càng phải đề cao trách nhiệm tu dưỡng và thực hành tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ
Báo
cáo viên: Đình Trọng
Bản thân Bác cũng dẫn một câu nói ở phương Đông
''Một tấm gương sáng còn hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền''. Có lẽ từ nhận
thức như vậy mà cuộc đời của Bác là một tấm gương đạo đức vô cùng trong sáng,
cao thượng và mẫu mực. Điều này có thể nhận thấy qua những hành vi trong cuộc
sống đời thường của Bác. Năm 1945, sau khi nước nhà giành được độc lập thì
xẩy ra nạn đói và vỡ đê làm khoảng 2 triệu người chết đói. Đau xót quá, Bác
kêu gọi mọi người: ''Lúc chúng ta bưng bát cơm mà ăn nghĩ đến người nghèo đói
chúng ta không khỏi động lòng, vì vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và
tôi xin thực hành trước cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, một tháng nhịn ăn ba
bữa, lấy gạo đó mỗi bữa một bơ để cứu giúp dân nghèo''. Nhìn thấy Bác gầy
rộc, ăn uống không đều đặn, các đồng chí phục vụ rất lo cho sức khỏe của Bác
và đã đề nghị Bác không nên nhịn ăn. Bác bảo: ''Bác kêu gọi đồng bào mười
ngày nhịn ăn một bữa thì Bác cũng phải làm gương chứ, các chú cứ bảo Bác ăn
thì làm gương cho ai được", Nghe tin nông dân bị mất mùa nấu cơm phải
độn thêm ngô, khoai, Bác yêu cầu cơm của Bác cũng phải độn ngô, khoai. Ngôi
nhà sàn Bác ở chỉ có giường đơn gối chiếc, chiếu mộc, không quạt máy, không
điều hòa nhiệt độ. Một lần Bác đi họp về, đồng bào Sơn La tặng Bác một cái
nệm, Bác nằm thử cũng thấy êm nhưng đến chiều Bác bảo với các đồng chí phục
vụ là mang cái nệm này sang tặng các cụ lão thành cách mạng già hơn Bác và
Bác nói một câu rất cảm động ''Trong lúc đồng bào chưa có chiếu mà nằm Bác
nằm nệm sao yên lòng''.
Bác là một tấm gương lớn về tự học. Đồng chí Vũ Kỳ,
Thư ký của Bác kể lại: khi dọn chỗ của Bác nằm điều trị trong bệnh viện năm
1969, lúc Bác đã đi xa, thấy một cuốn từ điển nước ngoài để ở đầu giường và
khi mở cuốn từ điển đó ra thì Bác còn ghi là ngày nào học đến từ nào, như vậy
là Bác cũng đã học đến hơi thở cuối cùng.
Qua những mẩu chuyện trên, chúng ta hiểu được tấm
gương rèn luyện phi thường về đạo đức, lối sống của Bác. Bác luôn tự răn mình
“Gạo đem vào giã bao đau đớn, gạo giã xong rồi trắng tựa bông, sống ở trên
đời người cũng vậy, gian nan rèn luyện mới thành công”. Đó chính là đạo đức
cách mạng hết sức bình dị nhưng vô cùng vĩ đại của Bác. Đạo đức đó không chỉ
có tác dụng thuyết phục, lôi cuốn toàn thể nhân dân Việt Nam đi theo cách
mạng và xây dựng đất nước mà còn được bạn bè khắp năm châu ngợi ca, học tập
và chính kẻ thù cũng phải kính nể, tôn trọng. Từ đạo lý, truyền thống của
nhân dân Việt Nam, từ sự từng trải và tu dưỡng của chính mình, từ niềm tin
lớn lao và khát vọng vươn lên cái chân, thiện, mỹ của con người Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã dày công xây đắp nên những phẩm chất đạo đức cách mạng dựa trên
bốn chuẩn mực sau:
Trung với nước, hiếu với dân. Đây là hai phạm trù
thời phong kiến xuất phát từ đạo đức Nho giáo, chữ trung và chữ hiếu chỉ ở trong
diện hẹp, nhưng Hồ Chí Minh đã sáng tạo dùng khái niệm này với nội dung cách
mạng hoàn toàn mới. Đó là trung với nước, hiếu với dân, trong đó có cả cha mẹ
và gia đình. Đây cũng chính là hai phạm trù đạo đức gắn bó chặt chẽ với nhau
vì theo quan niệm của Người nước là của dân, dân là chủ nhân của đất nước.
Điều này càng làm cho tư tưởng của Người vượt xa lên phía trước. Trung với
nước, hiếu với dân thì phải suốt đời hy sinh, phấn đấu vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì CNXH. Câu nói đó của Bác vừa là lời kêu gọi hành động vừa là định
hướng chính trị, đạo đức cho con người Việt Nam không chỉ trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc mà còn lâu dài về sau.
Về chuẩn mực yêu thương quý trọng con người, Bác
khẳng định yêu thương quý trọng con người là một trong những phẩm chất cao
đẹp nhất. Đó là tình cảm rộng, nhưng trước hết phải dành cho những người cùng
khổ. Bác khóc thương những người da đen nô lệ bị áp bức bóc lột trên toàn thế
giới. Còn đối với nhân dân Việt Nam, Bác hy sinh cả hạnh phúc cá nhân của mình
ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột.
Chúng ta cũng đã thấy tình yêu thương con người của Bác bao la đến nhường
nào. Bác nói: ''Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước
nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành''. Đặc biệt tình yêu thương con người
của Bác còn dành cho chính kẻ thù khi bị thua trận. Một lần, Bác đến thăm
trại tù binh Pháp, Bác thấy một tù binh đang rét run cầm cập liền cởi áo bông
trong người mà đồng bào Trung Quốc tặng Bác khoác lên người tù binh đó. Sang
phòng bên, Bác thấy một tù binh khác đang ho sùng sục, không ngần ngại Bác
cởi nốt chiếc khăn của mình quàng lên cổ cho tù binh đó. Sau này, chính những
tù binh đó viết hồi ký đã rất xúc động và khâm phục trước tấm lòng yêu thương
con người của Bác.
Về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, Bác giải
thích ngắn gọn, dễ hiểu. Cần có nghĩa là cần cù siêng năng, là tăng năng suất
lao động, là làm việc có hiệu quả, cần với Bác không có nghĩa là phải làm hết
sức, làm gắng làm gượng mà cần có nghĩa là kiên trì bền bỉ, dẻo dai. Kiệm là
tiết kiệm, không xa hoa lãng phí của tư cũng như của công, kiệm theo Bác
không có nghĩa là bủn xỉn mà kiệm phải đi đôi với cần, cần mà không kiệm thì
như gió vào nhà trống, kiệm mà không cần thì không làm thêm của cải. Liêm là
trong sáng không tham ô, tham lam. Bác nhấn mạnh chí công vô tư là chống chủ
nghĩa cá nhân. Bác ví chủ nghĩa cá nhân như cái bệnh mẹ, nếu chúng ta không
chống cái bệnh mẹ thì bệnh mẹ sẽ đẻ ra hàng loạt bệnh con, chí công vô tư là
phải làm những việc ích nước lợi dân và luôn luôn nghĩ đến lợi ích Tổ quốc.
Bác thường nhắc người cán bộ muốn có đạo đức cách
mạng thì nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức, xây phải đi đôi
với chống và phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Chúng ta có thể khẳng định rằng
đạo đức và tư tưởng đạo đức của Người mãi mãi là tấm gương sáng và những
nguyên tắc mẫu mực đó chính là những khuôn vàng thước ngọc để tu dưỡng đạo
đức làm người cho các thế hệ Việt Nam.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
Báo cáo viên: Vũ Thị Kim Dung
Khoa
Giáo dục Chính trị
Trường ĐHSP Hà Nội
Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, được
vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập
dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó,
vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt
trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ
chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy
mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả cộng đồng), đó là tư
tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong toàn bộ sự nghiệp đấu
tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Tư tưởng đó
cũng chính là nội dung cơ bản ủa toàn bộ tư tưởng về con người của
Hồ Chí Minh.
Đối
với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là
thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống
cá nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người:
"Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng
là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người". Quan điểm đó thể hiện ở
chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng.
Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn
cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư
cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo
ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu,
lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của
họ sẽ không thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ
nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải
là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách
riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình
mình". Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực
đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và
nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư
cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới.
Con
người trong tư
tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản thể luận có tính trừu
tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó là nhân
dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới
ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị
đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những "người nô lệ
mất nước" và "người cùng khổ". Lôgíc phát triển tư tưởng của
Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy,
khái niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm
"giai cấp vô sản cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản
cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng
lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức một cách
sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô
dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong
các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn
về người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính
sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người v.v...) về thực chất chỉ là
sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự
nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý
luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ
mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với
việc thực hiện bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải phóng
dân tộc cần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng
chiến, đồng thời tạo ra những tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội;
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân,
vì như Người nói: "Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái gì
đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi". Cuộc chiến đấu
ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa vào lực lượng của toàn
dân". Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao giờ quan niệm hình thái
xã hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất biến. Bao giờ Người
cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa khách
quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất. Theo Người:
"Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho
nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no và được sống đời hạnh phúc"; "Chủ nghĩa xã hội là nhằm
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân" xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân dân ta có
một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp. Người dạy xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải thiết thực, phù hợp với điều kiện khách quan, phải nắm được quy luật và
phải biết vận dụng quy luật một cách sáng tạo trên cơ sở nắm vững tính đặc
thù, tránh giáo điều, rập khuôn máy móc. Sự sáng tạo đó gần gũi, tương đồng,
nhất quán với luận điểm của Ăngghen: "Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng
sản không phải là trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng
mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong
trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay". Vì vậy, không chỉ trong
lý luận về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng chủ
nghĩa xã hội khi định ra những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết,
"cần có con người xã hội chủ nghĩa", Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về con người: con người là
mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng
xã hội và giải phóng chính bản thân con người.
Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con
người. Người yêu thương con người, tin tưởng con người, tin và thương
yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình và nhân dân các
nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân
loại" là "không bao giờ thay đổi". Người có một niềm tin lớn ở
sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và vô tận của Hồ Chí Minh
vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được hình thành rất sớm. Từ
những năm tháng Người bôn ba tìm đường cứu nước, thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu
thực tế cuộc sống và tâm tư của những người dân lao động trong nước và nước
ngoài. Người đã khẳng định: "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông
Dương ẩn giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến"1. Tin vào quần
chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một
trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ
khác căn bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của
các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ
Chí Minh) về con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu
trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết toàn dân", thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có
những tư tưởng tích cực "lấy dân làm gốc", mặc dù cũng chủ trương
khoan thư sức dân", nhưng quan điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi
việc dựa vào dân cũng như một "kế sách", một phương tiện để thực
hiện mục đích "trị nước", "bình thiên hạ". Ngay cả những
bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách
nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân,
chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin
vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm của Mác,
Ăngghen, Lênin: "Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra
lịch sử".
Tin dân, đồng thời lại hết lòng
thương dân, tình thương yêu nhân dân của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ
trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam.
Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái
dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của Người
là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý
chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành
lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con người. ở Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân
chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không
bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan hệ
khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu
thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị
áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh
luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của
bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp
cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự
nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại: Quan niệm về con
người, coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá nhân"
và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng
giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con
người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con
người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ
Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân
dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước,
Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ
chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông
qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành
một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự
nghiệp cách mạng ấy.
Tư tưởng về con người của
Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi nhìn
nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với tư cách là lãnh tụ), Người
không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân. Theo quan điểm của Hồ
Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung thành"
có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách
mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng
"chăn dân" của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng
yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn
cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một
nhà hiền triết phương Đông.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng về con người của
Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ
Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và
qua các chủ trương chính sách của Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng
ta quán triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung tâm
trong "chiến lược phát triển toàn diện"; đang là động lực của công
cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐỨC VÀ TÀI CỦA NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
Báo cáo viên: TS Võ Văn Hải
Học viện Chính trị
Người cán bộ, đảng
viên mà Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng là người có tài, đức, hồng thắm,
chuyên sâu. Người chỉ rõ: “Có tài phải có đức, có tài không có đức, tham ô hủ
hoá có hại cho nhà nước. Có đức không có tài, như ông Bụt ngồi trong chùa,
không giúp ích gì được ai”. Đức của người cán bộ, đảng viên là đạo đức cách
mạng. Người coi đạo đức cách mạng là “nền tảng”, là “cái gốc” của người cán
bộ. Đức của người cán bộ cách mạng thể hiện ở phẩm chất chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống, là lòng trung thành vô hạn đối với Đảng, với Tổ quốc, với
nhân dân, với chế độ XHCN; là trình độ giác ngộ mục tiêu, lý tưởng XHCN, sẵn
sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đó. Đức được thể hiện ở
sự trong sáng, thành thật, trung thực, không cơ hội, thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, biết hy sinh lợi ích cá nhân để phục tùng lợi ích tập
thể, lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Có lối sống trong sạch, lành mạnh,
gần gũi với quần chúng, gương mẫu gắn bó với nhân dân, khiêm tốn học hỏi,
thực sự cầu thị. Có tinh thần đoàn kết, thương yêu, tương thân, tương ái lẫn
nhau. Đức là cái gốc giúp người cán bộ cách mạng vượt qua mọi khó khăn,
gian khổ, hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó.
Người nói: “cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”. Đạo đức cách mạng tạo nên uy tín của cán bộ, đảng viên. Đó là cơ sở
để giáo dục, thuyết phục và lãnh đạo quần chúng nhân dân, là tấm gương sáng
cho mọi người noi theo.
Tài của người cán bộ là trình độ, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất. Tài được thể hiện ở trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, khả năng nhận thức đúng các quy luật, sáng tạo trong giải quyết công việc; luôn làm chủ được tri thức khoa học và có khả năng hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chuyên môn của mình. Bác nói: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn; chính trị là đức, chuyên môn là tài”. “Tài” còn là khả năng hoạt động thực tiễn, kỹ năng và hiệu quả thực hành các công việc được giao. Người cán bộ cách mạng phải có năng lực trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn, có trình độ kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng hoạt động tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Dù hoạt động trên bất kỳ lĩnh vực nào thì người có “Tài” phải là người có sự hiểu biết thấu đáo và thực hành thành thạo các công việc mà mình đảm nhiệm. Người chỉ rõ: “Ngày nay, Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thành thạo về chính trị mà còn phải giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung”. "Tài” của người cán bộ phải được nhìn nhận, đánh giá theo từng loại công việc và vì thế phải tìm chọn cán bộ có tài và bố trí phù hợp với yêu cầu sử dụng của từng nhiệm vụ. Người căn dặn: “không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người”.
. Đức và tài của người cán bộ, đảng viên trong Tư tưởng Hồ
Chí Minh phải luôn kết hợp chặt chẽ với nhau. Tài và đức của người cán bộ,
đảng viên là hai mặt không tách rời mà hoà quyện với nhau, là cơ sở, điều
kiện, tiền đề của nhau, thúc đẩy lẫn nhau để hoàn thiện hình thành nhân cách
người cán bộ cách mạng. Tài năng của người cán bộ có vai trò đặc biệt quan
trọng để họ hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, đạt chất lượng và hiệu quả cao
trong công việc. Người cán bộ có tài sẽ đem lại kết quả hoạt động tích cực, tự
giác, sáng tạo cho họ trên cơ sở hành động theo quy luật khách quan. Nhưng
tài năng đó phải được hiện diện trong hệ thống phẩm chất, năng lực và trong
tính hiệu quả hoạt động thực tiễn của người cán bộ, đảng viên. Người cán bộ
cách mạng phải là người có năng lực trí tuệ cao, tức là có trình độ hiểu biết
toàn diện, sâu sắc với một hệ thống tri thức tổng hợp bao quát được nhiều
lĩnh vực, có phương pháp tư duy khoa học để nhận thức được bản chất, quy luật
của sự vật, hiện tượng, có năng lực thực tiễn tốt để đạt hiệu quả cao trong
thực hiện chức trách, nhiệm vụ.
Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức cách mạng là tiêu chí hàng đầu, là "gốc" của người cán bộ, nâng cao đạo đức cũng có nghĩa là củng cố vững chắc hơn cơ sở định hướng cho sự phát triển tài năng của người cán bộ, vì lợi ích chung của Đảng, của giai cấp và của dân tộc. Đạo đức của người cán bộ, đảng viên được nâng cao càng tăng thêm động lực tinh thần thôi thúc người cán bộ vượt lên mọi khó khăn thử thách để nâng cao trình độ trí tuệ của mình. Đạo đức là sự thể hiện quan hệ ứng xử và hành vi của con người, đem lại lợi ích cho người khác và cho xã hội. Đạo đức của người cán bộ cách mạng còn là nền tảng và là cơ sở để người cán bộ, đảng viên phát huy tài năng, trí tuệ và các phẩm chất khác, hướng năng lực của họ vào hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng. Vì vậy, theo Người, cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Đạo đức luôn luôn là động lực của tình cảm và hành vi của người cán bộ, tài là cơ sở để làm cho đức của người cán bộ cách mạng càng cao, càng lớn hơn.
Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đức - Tài của người cán bộ là di huấn vô giá Người để lại cho Đảng và
nhân dân ta về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới. Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức,
đủ tài, cơ hội chủ nghĩa”. Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay phải
là kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, có niềm tin vào sự
nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay
là cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước;
không tham nhũng và cương quyết đấu tranh chống tham nhũng; có lối sống trong
sạch, lành mạnh, gần gũi với nhân dân, gương mẫu và gắn bó với quần chúng.
Đặc biệt, người cán bộ cách mạng phải biết trăn trở trước cuộc sống
nghèo khổ của quần chúng nhân dân và nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế
của đất nước so với thế giới; phải suy nghĩ và hành động, đem hết tài năng,
tâm sức cống hiến cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Đức của người cán bộ,
đảng viên hiện nay phải là nói đi đôi với làm, nói ít, làm nhiều; phải biết
thể hiện bằng hành động, bằng những việc làm cụ thể, bằng nê gương để
thuyết phục, quy tụ mọi người.
Tài là năng lực chuyên môn, khả năng công tác để bảo đảm
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; tài là tầm tư tưởng, trí tuệ của
người cán bộ, đảng viên trong tiến hành công việc một cách độc lập, sáng tạo,
mang lại hiệu quả tối ưu. Tài phải được thể hiện ở trình độ, năng lực
tư duy phát triển; có tư duy biện chứng, lôgíc, có tầm hiểu biết sâu
rộng và phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả, đủ sức cắt nghĩa và tìm được
những câu trả lời thuyết phục trước những biến động phức tạp và mau lẹ của
thực tiễn. Phải có năng lực trí tuệ phát triển cao, có trình độ ngoại ngữ và
tin học để làm chủ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin; có năng lực tổ
chức thực tiễn, năng lực cạnh tranh khoa học và công nghệ, có khả năng tiếp
nhận và quản lý được công nghệ kỹ thuật mới.
Đức và tài là một thể thống nhất, không thể tách rời.
Vì vậy, không thể chỉ có đức mà không cần tài, càng không thể coi trọng tài
mà xem nhẹ đức. Đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay không chỉ
như đạo đức công dân mà còn bao hàm cả đạo đức của người lãnh đạo, chỉ huy.
Trung thành nhưng phải có bản lĩnh, có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,
không thụ động, bảo thủ trì trệ, né tránh khó khăn, gian khổ. Trung thành
nhưng không phải là “gọi dạ, bảo vâng”, cơ hội, không có chủ kiến, không dám
đấu tranh, tuỳ thời vì mục đích quyền lực và tiền tài. Tài của người cán
bộ hiện nay cần phải được nhìn nhận, đánh giá theo từng loại công việc và vì
thế phải tìm chọn cán bộ có tài phù hợp với yêu cầu sử dụng. Nghĩa là khi
chọn người tài phải dựa vào thế mạnh và sở trường của họ, vào tài năng thực
tế của người cán bộ, đảng viên, không hoàn toàn dựa vào bằng cấp để bố trí
công việc, xác định cương vị; có vậy mới giúp cán bộ, đảng viên phát huy được
ưu thế, sở trường, dốc tâm lực vào sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của nhân dân.
Hiện nay, vấn đề đào tạo, sử dụng, đánh giá cán bộ
phải được gắn với đức - tài được hiểu một cách khoa
học, đầy đủ. Đức và tài của người cán bộ hiện nay cần phải cụ thể
hoá bằng tiêu chuẩn chức danh đối với mỗi chức vụ, cương vị công tác, nhất là
các tiêu chí mới đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Đức và
tài của người cán bộ đạt đến trình độ nào thì phải lựa chọn bố trí họ ở cấp
và vị trí tương xứng. Nhưng vấn đề có tính nguyên tắc cần khẳng định là,
đã là người cán bộ cách mạng thì phải có đủ đức, đủ tài tương xứng với yêu
cầu, nhiệm vụ, không thể châm chước bất cứ một tiêu chuẩn nào. Nếu quan điểm
đức-tài không rõ ràng, lẫn lộn, chỉ nhìn hình thức bề ngoài mà không thấy bản
chất bên trong của con người thì kết quả là sẽ chọn ra những kẻ bất tài, vô
dụng, làm hại đến sự nghiệp cách mạng. Thấm nhuần Tư tưởng Hồ Chí Minh
về mối quan hệ giữa đức và tài của người cán bộ, đảng viên vào xây dựng đội
ngũ cán bộ cách mạng trong tình hình hiện nay là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ RÈN LUYỆN NHÂN CÁCH ĐẢNG VIÊN CỘNG
SẢN
Báo cáo viên: Đại tá, PGS.TS. Đinh Hùng Tuấn
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đội ngũ
đảng viên. Ngay từ năm 1925, bài giảng đầu tiên của Người cho những cán bộ
cách mạng trẻ tuổi của Việt Nam là vấn đề “tư cách một người cách mệnh”.
Nghiên cứu những bài nói và viết của Người, chúng ta đều
thấy mối quan tâm hàng đầu của Người là xây dựng một đội ngũ cán bộ đảng viên
của Đảng thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Sự giác ngộ lý tưởng cộng sản, lòng trung thành với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của giai cấp công nhân, suốt đời hy sinh phấn đấu
vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là
phẩm chất hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra cho mỗi đảng viên cộng sản.
Người căn dặn mỗi đảng viên "không một phút nào được
quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập cho
chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế
giới"; phải biết đặt lợi ích của giai cấp, của dân tộc lên trên lợi ích
của cá nhân, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, vô luận trong hoàn cảnh nào
cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết; nếu khi "lợi ích chung của
Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân thì phải quyết hy sinh lợi ích
của cá nhân cho lợi ích của Đảng". Người chỉ rõ: suốt đời phục vụ Đảng,
phục vụ nhân dân "là phẩm chất cao quý của người cách mạng. Đó là đạo
đức cách mạng. Đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi
của đảng, của giai cấp, của nhân dân". Người đánh giá rất cao những đảng
viên luôn luôn trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp và của dân
tộc, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản, đồng thời phê phán nghiêm khắc những kẻ lợi dụng
địa vị để mưu cầu lợi ích cá nhân làm tổn hại đến lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lạo động.
Chủ tịch Hồ chí Mình đòi hỏi mỗi đảng viên cộng sản cùng
với phẩm chất cách mạng cao quý còn phải có năng lực, vì có năng lực mới hoàn
thành tốt được nhiệm vụ của Đảng giao cho. Người dạy rằng, "Đảng yêu cầu
cán bộ và đảng viên chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên
môn, không thể lãnh đạo chung chung”. Muốn vừa thạo về chính trị, vừa giỏi về
chuyên môn, mỗi đảng viên phải ra sức "học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và
đường lối, chính sách của Đảng, học tập văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ; không
ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực công tác của mình”.
Bởi vì, có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng,
giữ vững lập trường, nâng cao hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm tốt
được công tác Đảng giao cho mình; “có nắm vững đường lối cách mạng mới hiểu
rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng
trong giai đoạn cách mạng hiện nay”. Người cũng chỉ rõ rằng, muốn học tập có
kết quả tốt, phải có thái độ đúng và phương pháp đúng, lý luận phải liên hệ
với thực tế, phải “biến những điều đã học thành hành động cách mạng thực tế.
Học phải đi đôi với hành, chứ không phải học để nói suông”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một yêu cầu quan trọng về phẩm
chất đảng viên là liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy quyền làm chủ
tập thể và sức mạnh sáng tạo to lớn của quần chúng. Bởi lẽ, Đảng là đội tiên
phong của quần chúng, nhưng Đảng chỉ có sức mạnh nếu giữ vững được mối liên
hệ chặt chẽ với quần chúng. Muốn làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng,
người đảng viên "phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước
quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải
thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt
“quan cách mạng” ra lệnh, ra oai. Phải nắm vững quan điểm giai cấp, đi đúng
đường lối quần chúng, thành tâm học hỏi quần chúng, kiên quyết dựa vào quần
chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành mọi chủ trương, chính sách
của Đảng và của Nhà nước. Phải thật thà, ngay thẳng, không được giấu dốt,
giấu khuyết điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được
kiêu ngạo...Phải luôn chăm lo đến đời sống của quần chúng. Phải “chí công, vô
tư” và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. “Người nghiêm khắc
phê phán những đảng viên “xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần
chúng...ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng...mắc bệnh
quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, không
yêu...” và họ không làm nên trò trống gì.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách đảng viên cộng sản luôn
nhấn mạnh vấn đề xây dựng ý thức tổ chức và kỷ luật, phục tùng nghiêm chỉnh
kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ, sức mạnh
vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm. Người
chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người.
Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và
tự giác”. Người đòi hỏi mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỷ
luật, chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và
của cơ quan chính quyền. Trong giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, người yêu cầu
mọi đảng viên phải ra sức góp phần xây dựng và giữ vững sự đoàn kết nhất trí
trong Đảng. Bởi lẽ, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công.
"Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết,
tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác". Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác
nhau, làm công tác khác nhau, cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn
nhiệm vụ, "giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình"
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ những biện pháp thiết thực
để mỗi đảng viên cộng sản phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng nhân cách của mình.
Trước hết, mỗi đảng viên phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nếu để cho chủ nghĩa cá nhân ám ảnh,
chi phối, người đảng viên sẽ mất dần tư cách, đi tới tự tước bỏ danh hiệu cao
quý của mình. Vì vậy, muốn giữ được tư cách, đảng viên nhất thiết "phải
ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để
tiến bộ, thì tức là thoái bộ, là lạc hậu...sẽ bị xã hội tiến bộ sa
thải".
Việc giữ gìn bản chất, tư cách đảng viên cộng sản cần gắn
với xây dựng, củng cố các tổ chức của Đảng, nhất là chi bộ, vì chi bộ “là nền
móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”. Thực tế đã chứng minh rất rõ:
ở đâu chi bộ mạnh, cấp ủy mạnh thì đảng viên mạnh, ở đâu chi ủy, chi bộ rệu
rã thì ở đó cán bộ, đảng viên tê liệt sức chiến đấu, dễ trở thành hư hỏng,
thoái hoá. Cho nên, trong xây dựng tổ chức đảng, xây dựng chi bộ, các cấp ủy
đảng phải thực hiện dân chủ nội bộ, quan tâm đến đời sống của cán bộ, đảng
viên, kịp thời giúp họ giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống
và công tác. Song, phải nghiêm khắc đối với những cán bộ, đảng viên phạm sai
lầm, khuyết điểm; tẩy bỏ những phần tử hủ hoá nhằm giữ gìn nghiêm kỷ luật từ
trên xuống dưới.
Cùng với việc giữ nghiêm kỷ luật, phải "mở rộng phong
trào phê bình và tự phê bình ở trong Đảng, ở các cơ quan, các đoàn thể, trên
các báo chí cho đến nhân dân. Phê bình và tự phê bình phải thường xuyên,
thiết thực, dân chủ, từ trên xuống và từ dưới lên". Người còn vạch rõ:
“Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa.
Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà
tự phê bình". Đồng thời, Người yêu cầu phải tăng cường công tác kiểm tra
trong Đảng nhằm "thúc đẩy và giáo dục đảng viên làm trọn nhiệm vụ...,làm
gương mẫu cho nhân dân" và xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao sức chiến
đấu của Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đứng trước những vận
hội mới và thách thức mới, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, hơn bao giờ hết chúng ta phải giương cao ngọn cờ lãnh đạo
của Đảng, xây dựng các tổ chức chi bộ vững mạnh, rèn luyện tư cách đảng viên
với phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Việc nghiên cứu, quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong rèn luyện
phẩm chất, tư cách đảng viên cộng sản nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng
nhằm củng cố tổ chức đảng, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA
VĂN HOÁ
Báo cáo viên: Th.s Ngô Thị Vân
Khoa Xây dựng Đảng
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa
chiếm một vị trí quan trọng. Nó là sự chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những
giá trị văn hóa của Việt Nam với văn hóa phương Đông và Phương Tây, là sự kết
hợp của truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế mà cốt lõi là sự kết
hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh hoa, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh thì văn hóa có vai trò to lớn trong đời sống của mỗi quốc
gia dân tộc.
Trước hết, văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng. Văn
hóa là kiến trúc thượng tầng của xã hội, vì vậy việc lật đổ chế độ xã hội cũ,
xã hội thực dân phong kiến và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa
(XHCN) tốt đẹp là mục tiêu của văn hóa. Cách mạng XHCN ở nước ta, theo Hồ Chí
Minh là phải “thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành
kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực
khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”.
Khi chỉ rõ “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh vai trò động lực của văn hóa. Theo Người: tiến lên CNXH
phải có cả vật chất lẫn tinh thần, song con người là quyết định; để đưa đất
nước đi lên, không thể không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của
hoạt động kinh tế lại chính là con người và thước đo trình độ con người lại
chính là văn hóa. Thứ hai, Văn hóa là một mặt hợp thành toàn bộ đời sống xã
hội. Người nhấn mạnh: “trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề chú
ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Vì thế, văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị”
và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”.
Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa và
giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu
duy nhất thì chẳng những môi trường văn hóa – xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu
kinh tế cũng không đạt được.
Thứ ba, Văn hóa là linh hồn, bản sắc dân tộc. Hồ Chí Minh
cho rằng, văn hóa không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa trước hết
là văn hóa của một dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là
bản sắc dân tộc của văn hóa. Từ đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lấy kinh nghiệm
tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh
thần thuần túy Việt Nam”, “cần phải mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế
giới”, “Phương Đông hay Phương Tây có cái gì hay, cái gì tốt ta phải học lấy”;
song điều cốt yếu là “đừng biến ta thành kẻ bắt chước”, và “đừng chịu vay mà
không trả” – “cái gốc của văn hóa mới là dân tộc”. Học tập văn hóa hiện đại
của các nước phải phù hợp với điều kiện Việt Nam, kết hợp với văn hóa Việt
Nam tạo ra những giá trị mới đóng góp vào việc phát triển văn hóa nhân loại.
Ngày nay, toàn cầu hóa là một xu thế khách quan mà mọi dân
tộc, dù muốn hay không cũng đều chịu sự tác động của nó.
Toàn cầu hóa đang đưa lối sống của nhiều nước trên thế giới
mà điên hình nhất là lối sống của các nước Phương Tây vào nước ta. Lối sống
ấy, tác động tích cực đến việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu, phụ
thuộc, ỷ lại vốn có của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở, năng động,
tự lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại.
Nhưng bên cạnh đó, trong lúc chúng ta miệt mài tiếp thu lối
sống đó một cách thiếu định hướng mà dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn
mực đạo đức dân tộc. Các công nghệ thông tin hiện đại đang truyền bá những
lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa
hoa, lãng phí, sống trụy lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực… Lối sống đó đang tác
động mạnh mẽ đến một bộ phận nhân dân, trong đó có cả tầng lớp cán bộ, đảng
viên và nhất là lớp trẻ - những người đang xây và những người sẽ xây dựng đất
nước. Nhiều cán bộ đảng viên nịnh trên, mắng dưới, đánh trống bỏ dùi, chỉ
biết bo bo giữ lấy những lợi ích của mình, vơ vét cho đầy túi, thỏa mãn cuộc
sống cá nhân. Trong đó có rất nhiều những người cán bộ mất hết cả nhân tính
để thỏa mãn dục vọng, và nấc thang danh vọng của mình đã đưa cả học sinh của
mình làm “vật hiến tế” cấp trên, cặp bồ, chơi gái và coi đó là chuyện đương
thời… Đặc biệt giới trẻ hiện nay, nhiều học sinh, sinh viên bỏ học ký nợ để
“sống chung” với games, net; theo số liệu thống kê có 30,9% sinh viên đã vào
các trang websex, và hiện tượng “sống thử” cũng đang tồn tại khá phổ biến trong
đời sống sinh viên… Đó chính là biểu hiện của sự xuống cấp về lối sống của
một bộ phận thanh, thiếu niên Việt Nam, là biểu hiện của quan niệm “lệch
chuẩn”, đối lập với quan niệm văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt
Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa từ lâu đã trở thành kim chỉ
nam của Đảng trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Trong tình trạng “báo động đỏ” về lối sống của một số cán bộ, đảng
viên và thanh niên hiện nay, chúng ta cần tăng cường vận dụng tư tưởng của
Người vào việc giáo dục nhân cách cho họ. Tóm lại: Lối sống là tiêu chí đầu
tiên, tiêu chí tổng hợp nhất, thể hiện chất lượng văn hoá và trí tuệ của một
con người. Thực hiện tốt lời dạy của Người, chắc chắn chúng ta sẽ tạo dựng
được một lối sống lành mạnh, xây dựng được môi trường văn hóa tiến bộ; góp
phần vào sự phát triển chung của đất nước. Trong xu thế đối thoại giữa các
nền văn hóa trên thế giới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa mãi mãi
là ánh sáng soi đường cho dân tộc ta trong quá trình xây dựng “nền tảng tinh
thần của xã hội”.
VẤN ĐỀ VĂN HOÁ TRONG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁ TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Báo cáo viên: Tạ Ngọc Tấn
GS, TS, Ủy viên Trung ương Đảng
Hơn nửa thế kỷ trước, trong một số
ghi chép ở trang cuối cùng của tập thơ “Nhật ký trong tù” lãnh tụ Hồ
Chí Minh viết “ý nghĩa của văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Từ nhận thức ấy, Hồ Chí Minh đưa ra khái
niệm về văn hóa: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những
nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(1). Có thể nói,
đây là một cách tiếp cận văn hóa từ ý nghĩa khái quát, đặc trưng nhất của nó,
một định nghĩa cô đọng và chính xác về văn hóa.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn
hóa là xuất phát từ cách tiếp cận mác-xít và rất gần gũi với nhận thức hiện
đại, khi coi văn hóa không chỉ đơn thuần là đời sống tinh thần của con người
- xã hội (theo cách phân khúc rời rạc), mà từ trong bản chất của mình, nó
chính là linh hồn, là hệ thần kinh của một xã hội, là sức mạnh trường tồn của
cả dân tộc, là sức sống vươn lên của thời đại. Văn hóa không phải là toàn bộ
đời sống con người xã hội, mà là phần cốt tử, là tinh hoa được chưng cất, kết
tụ nên cái bản chất, bản sắc, tính cách của dân tộc, của thời đại. Nó được
thăng hoa từ hơi thở cuộc sống, từ năng lực, trình độ và phương thức sống của
mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng. Và đến lượt mình, văn hóa hiện diện trong mọi
hoạt động từ suy tư đến hành động thực tế, từ hoạt động cá nhân đến những vận
động xã hội, từ hoạt động vật chất đến những sáng tạo tinh thần những phát
minh, sáng chế, tạo ra những giá trị mới của sản xuất vật chất, khoa học - kỹ
thuật - công nghệ, văn học - nghệ thuật.
Năm 1970, nghĩa là gần 30 năm sau
thời điểm Hồ Chí Minh viết những lời này, tại Hội nghị liên chính phủ về các
chính sách văn hóa họp ở Vơ-ni-dơ (I-ta-li-a), UNESCO đã thừa nhận khái niệm
do Ph.Mây-ơ (F. Mayor) - nguyên Tổng Giám đốc của tổ chức này đưa ra là khái
niệm chung, chính thức của cộng đồng quốc tế về văn hóa: “Văn hóa bao gồm
tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm
tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và
lao động”. Nếu so sánh, có thể thấy, khái niệm này của UNESCO về văn hóa
có nội dung cơ bản như nội dung khái niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cái khác
nhau của hai khái niệm này là ở chỗ, khái niệm của ông Ph.Mây-ơ chỉ nhấn mạnh
đến tính đặc thù của các giá trị văn hóa, tức là “cái làm cho dân tộc này
khác với dân tộc khác”. Còn trong khái niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa, văn
hóa không chỉ là cái tạo nên tính đặc thù của dân tộc, mà còn là những giá
trị nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
“Nhu cầu đời sống” của con người luôn phát triển cũng như “đòi hỏi của sự
sinh tồn” của xã hội loài người luôn luôn nâng cao, hoàn thiện. Cũng có
nghĩa, nói đến văn hóa là nói đến giá trị, nhưng là những giá trị kết tinh
lao động sáng tạo của con người trên các bình diện hoạt động nhằm cải tạo tự
nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình, hướng tới chân, thiện,
mỹ, tức là hướng tới sự tốt đẹp, nhân văn và không ngừng hoàn thiện của nhân
loại. Nói đến văn hóa không chỉ là nói đến những giá trị tĩnh, kết tinh ngưng
đọng, mà còn là sự vận động, phát triển và hoàn thiện những giá trị ấy trong
thời gian và không gian.
Từ nhận thức khái quát về văn hóa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một cách cụ thể về nội dung, yêu cầu xây dựng nền
văn hóa dân tộc. Người viết tiếp: “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc.
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc
lập tự cường.
2. Xây dựng luận lý: biết hy sinh
mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp
có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế”
Việc chỉ ra những điểm lớn trên
chứng tỏ rằng, khi phân định nội hàm khái niệm văn hóa, Hồ Chí Minh nhận thức
rất rõ rằng, xây dựng nền văn hóa dân tộc phải đặt trong mối quan hệ qua lại
với các mặt khác của đời sống dân tộc như: “tâm lý”, “luận lý”, “xã hội”,
“chính trị”, “kinh tế”. Xây dựng văn hóa phải gắn liền với từng bình
diện ấy, làm cho văn hóa trở thành phẩm chất tốt đẹp, đặc trưng riêng có và ý
nghĩa tích cực của những lĩnh vực đời sống đó.
Tóm lại, có thể nói rằng, ngay từ
năm 1943, quan điểm về văn hóa và nền văn hóa dân tộc của Hồ Chí Minh đã tỏ
rõ tính hiện đại. Quan điểm này thể hiện tầm chiến lược thiên tài của Người
trong việc xác định vai trò, vị trí và những tiêu chí cơ bản nhằm định hướng
phát triển nền văn hóa Việt Nam làm cơ sở cho sự phát triển toàn diện của xã
hội Việt Nam tương lai.
Hồ Chí Minh quan niệm, xây dựng về “tâm
lý” là xây dựng “Tinh thần độc lập tự cường”, cũng có nghĩa là
sự giáo dục, định hướng để hun đúc nên tình yêu đất nước, niềm tự hào dân
tộc, ý chí tự chủ, tự cường. Đó chính là cơ sở nền tảng bảo đảm cho sự đoàn
kết, đồng thuận dân tộc, điều kiện để tạo nên sức mạnh bảo vệ độc lập dân
tộc, chống lại mọi sự xâm lược, phá hoại từ bên ngoài. Lịch sử tồn tại, phát
triển của dân tộc Việt
Có thể nói, quan điểm xây dựng văn
hóa về “tâm lý” với nội dung là “tinh thần độc lập tự cường” là xuyên suốt và
nhất quán trong nhận thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên hành trình tìm đường
cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Người nhận ra
rằng, đó chính là con đường giải phóng dân tộc khỏi áp bức, lầm than. Sau
này, cho dù trong những thời điểm thử thách khắc nghiệt nhất đối với quan
điểm chính trị của mình hay trong thực tiễn cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm
lược bảo vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh
luôn kiên định quan điểm về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Và chân lý nổi
tiếng mà Hồ Chí Minh đã tổng kết từ thực tiễn lịch sử của thế giới và từ
chính những bài học xương máu của lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt
Càng nhận thức sâu sắc về ý nghĩa
của vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh càng thấu
hiểu hơn ý nghĩa của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chính vì thế, Người đã khẳng
định, một trong số bài học lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga là: “Kết
hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản trong cách
mạng giải phóng dân tộc cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thời
đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách
mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn”.
Cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là biểu hiện sinh động, là tấm gương sáng rõ nhất về sự kết hợp hài
hòa giữa những giá trị dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa lòng yêu nước nồng
nàn và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Người đã đi khắp năm châu, bốn biển,
hoạt động như một chiến sỹ quốc tế nhưng tình yêu nước, thương nòi cùng những
bản sắc con người Việt Nam của Người không những không phai nhạt đi mà càng
sâu sắc, đậm đà hơn lên. Trong khi tận tâm, tận lực vì sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, Người cũng ý thức rất sâu sắc về chủ nghĩa quốc tế vô
sản, về sự đoàn kết của phong trào công nhân, cộng sản thế giới và đã xử lý
vô cùng khéo léo, có trách nhiệm mối quan hệ giữa các đảng cộng sản, các quốc
gia và dân tộc khác trên thế giới.
Từ nhận thức về chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã rút ra bài học sâu sắc về quan hệ gắn bó giữa độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, coi đó như một trong những điều kiện hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhưng trở lại yêu cầu về xây dựng văn hóa
theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì vấn đề đặt ra là phải giáo dục, quán triệt nhận
thức đó, bài học đó thành tư tưởng, tình cảm, thành hành vi, lối sống của mỗi
con người, thành một giá trị xã hội của Việt
Xây dựng văn hóa về mặt “luận lý”,
theo cách hiểu của Hồ Chí Minh, chính là sự hình thành và không ngừng hoàn
thiện về tư tưởng, lối sống mà nội dung trung tâm, quan trọng nhất của nó là “biết
hy sinh làm lợi cho quần chúng”. Đó cũng chính là nội dung quan trọng
nhất của những chuẩn mực đạo đức xã hội mà con người chúng ta nói chung hay
mỗi cán bộ cách mạng nói riêng cần hướng tới. Tiêu chuẩn con người cán bộ
“cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” chính là sự phát triển đầy đủ hơn từ
tiêu chí xây dựng văn hóa này. Đây cũng chính là yêu cầu sống còn về xây dựng
chủ nghĩa xã hội, bởi vì như sau này Hồ Chí Minh đã nhắc lại rất nhiều lần
rằng, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa” mà
yêu cầu đầu tiên, quyết định của con người xã hội chủ nghĩa phải “đi đến hoàn
toàn không có chủ nghĩa cá nhân". Trong bài viết “Nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nhân dịp kỷ niệm 39 năm thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-2-1969, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Do cá nhân
chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa
hoa... Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ
luật... Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm”. Chính vì thế,
Người yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của
Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể,
tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật” .
Nói cách khác, xây dựng văn hóa về
“luận lý” chính là xây dựng văn hóa sống của con người. Trong các chế độ xã
hội dựa trên nền tảng của chế độ tư hữu thì chính quan hệ bóc lột, bất công
bằng giữa người với người tạo thành những yếu tố, điều kiện một cách tự
nhiên, thúc đẩy con người đi tới chủ nghĩa cá nhân, hình thành lối sống vụ
lợi, ích kỷ. Sự thắng thế của quan hệ nhân đạo, của chủ nghĩa nhân văn, của
sự hy sinh, xả thân cho lợi ích cộng đồng, đồng loại chỉ có ý nghĩa nhất
thời, gắn với các giá trị yêu nước, dân tộc và về tổng thể, luôn chỉ giữ thế
yếu so với sự vụ lợi, với chủ nghĩa cá nhân.
Nếu chủ nghĩa xã hội là một cuộc
cách mạng thì ý nghĩa cách mạng sâu sắc nhất, cũng là gay gắt nhất chính là
sự biến đổi trong văn hóa sống của con người, là sự giải thoát con người khỏi
chủ nghĩa cá nhân để hình thành và dần dần hoàn thiện văn hóa sống nhân văn
cao cả, đặt lợi ích của dân tộc, đất nước và của chế độ lên trên hết, đặt lợi
ích cá nhân trong sự hài hòa với lợi ích của tập thể. Nói như Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và
có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Phải đánh bạt những tư tưởng công thần, địa vị,
danh lợi của chủ nghĩa cá nhân, làm cho tư tưởng của chủ nghĩa tập thể thắng
lợi, tức là phát huy tinh thần cần kiệm xây dựng của nghĩa xã hội, bảo vệ của
công, chống tham ô, lãng phí”. Đó cũng chính là cốt lõi văn hóa của con người
mà chủ nghĩa xã hội hướng tới, là điều kiện, cơ sở cho sự phát triển của chế
độ xã hội chủ nghĩa. ý nghĩa cách mạng vô cùng sâu sắc của sự biến đổi này
chính là do sự phức tạp, gay cấn trong cuộc đấu tranh tư tưởng của mỗi cá
nhân con người cũng như cả xã hội để vượt qua những tập quán sống đã hình
thành, khắc sâu vào lối sống xã hội con người trong suốt chiều dài lịch sử đã
qua, để hình thành và dần hoàn thiện một thang giá trị mới mẻ trong mỗi con
người và trong cả cộng đồng xã hội. Đến lượt nó, chính sự hình thành văn hóa
sống trở thành tiêu chí để đánh giá những kết quả của cách mạng, thành điều
kiện của sự phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bàn đến nội dung xây dựng văn hóa
về “xã hội”, Hồ Chí Minh coi đó là “Một sự
nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội”. Ở bình diện
này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến cả “một sự nghiệp”. Điều ấy có thể hiểu là
việc phấn đấu cho phúc lợi của nhân dân là yêu cầu quyết định, thể hiện tính
bản chất của chế độ. Nó phải được phản ánh trong mục tiêu, trong mô thức xây
dựng, trong cơ chế vận hành của cả chế độ. Nó đồng thời phải trở thành một
thể hiện tất yếu xã hội trong mỗi thành viên, mỗi bộ phận hợp thành của chế
độ xã hội. Đây cũng chính là một nhận thức nhất quán, chỉ đạo hành động trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1946, ngay
sau Cách mạng Tháng Tám, Người khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Khi
nói về chủ nghĩa xã hội, nhiều lần Hồ Chí Minh đã đặt “phúc lợi của nhân dân”
như là ý nghĩa quan trọng nhất của khái niệm này. “Chủ nghĩa xã hội là mọi
người dân được áo ấm cơm no, nhà ở tử tế, được học hành”; “Chủ nghĩa xã hội
là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi
học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ”... Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhìn nhận “phúc lợi” không đơn thuần là những giá trị vất chất, đương
nhiên đó là những giá trị đầu tiên không thể thiếu. Đó còn là những yêu cầu
về “tư do”, “dân chủ”, “học hành”, “nghỉ ngơi”, những điều kiện cần và đủ cho
con người phát triển một cách toàn diện.
Từ nhận thức về văn hóa trong nội
dung xây dựng về xã hội, càng thấy rõ ý nghĩa nhân văn như là cốt
cách, là bản chất, quán xuyến trong tất cả các bình diện tư tưởng của Hồ Chí
Minh. Xây dựng văn hóa về nội dung xã hội cũng có nghĩa là mang lại cho xã hội
ý nghĩa nhân văn cao cả ấy. Điều ấy cũng có nghĩa không đơn thuần là đạt được
những kết quả về phúc lợi xã hội, mà hơn thế, bao gồm cả cách thức đạt được
những phúc lợi ấy như thế nào, sử dụng những phúc lợi ấy ra sao, những phúc
lợi ấy mang lại gì cho sự phát triển tốt đẹp của con người. Sinh thời, khi
nói đến vấn đề phân phối hàng hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “không sợ
thiếu, chỉ sợ không công bằng”. Ở đây, phương thức phân phối “công bằng” được
đánh giá về tầm quan trọng cao hơn số lượng nhiều hay ít sản phẩm phân phối.
Đương nhiên, nói như thế không có nghĩa là số lượng sản phẩm không quan
trọng. Nhưng trong hoàn cảnh cụ thể, rõ ràng cách phân phối sẽ quyết định mối
quan hệ và thái độ của những người được tham gia phân phối. Đó cũng chính là
một biểu hiện cụ thể của ý nghĩa văn hóa.
Đất nước ta còn không ít khó khăn,
nền kinh tế chưa phát triển đến mức đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu phúc lợi phong
phú của nhân dân. Chính vì thế, việc thúc đẩy phát triển kinh tế, làm giàu,
không ngừng tăng thêm phúc lợi cho nhân dân là một đòi hỏi khách quan, cấp
thiết. Nhưng điều đó không cho phép chúng ta quên đi việc giáo dục về văn hóa
trong phân phối, hưởng thụ các nguồn phúc lợi xã hội. Bởi chính văn hóa sẽ
tạo nên chất kết dính các mối quan hệ xã hội, quy tụ và nhân lên những tiềm
lực của xã hội. Việc tạo ra những của cải và mang lại những phúc lợi cho con
người đã là khó khăn, đòi hỏi sự phát triển về lực lượng sản xuất, không
ngừng nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu tiêu hao nguyên liệu, vật liệu,
nhiên liệu. Nhưng việc phân phối những của cải vật chất và phúc lợi ấy lại
mang ý nghĩa văn hóa, mang triết lý xã hội đặc trưng, đòi hỏi một quá trình
giáo dục, trải nghiệm và hoàn thiện thì càng phức tạp, khó khăn hơn. Điều ấy
lý giải tại sao ngày nay, không phải cứ ở những nước giàu có nhất thì người
dân cảm nhận cuộc sống hạnh phúc nhất và xã hội hòa hợp nhất.
Sự chia sẻ, tính tiết kiệm, sự công
bằng, thái độ vô tư, ý thức cộng đồng, những điều ấy ở nghĩa sâu xa của nó,
chính là sự biểu hiện sâu sắc của giá trị văn hóa, sự kết tinh văn hóa trong
xã hội. Nó trở thành nền tảng cho việc sử dụng của cải, phúc lợi xã hội hợp
lý nhất, mang lại nhiều hạnh phúc nhất cho con người. Ngày nay, đó cũng là
một đòi hỏi của sự phát triển bền vững khi nguồn tài nguyên thiên nhiên của
trái đất càng ngày càng cạn kiệt và môi trường sống của con người đang bị phá
hoại nghiêm trọng. Từ nhận thức ấy càng thấy ý nghĩa thực tiễn to lớn của tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng nền tảng văn hóa xã hội liên quan đến phúc
lợi của nhân dân.
Về nội dung xây dựng “chính
trị”, theo Hồ Chí Minh, đó chính là “dân quyền”. Văn hóa chính trị chính
là mang lại và bảo đảm được “dân quyền”. Ở đây,
dân quyền không chỉ là những quyền trên các lĩnh vực đời sống mà người
dân được hưởng ngày càng đầy đủ, càng có ý nghĩa tốt đẹp cho sự phát triển
toàn diện, mà còn là những quyền lợi - lợi ích mà xã hội mang lại cho nhân
dân ngày càng đầy đủ hơn, ngày càng giúp cho cuộc sống của người dân hạnh
phúc hơn, tiến bộ hơn. Có thể nói, toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài
người cũng chính là lịch sử đấu tranh, phấn đấu để mang lại cho người dân
nhiều dân quyền hơn, nhiều tự do hơn. Chủ nghĩa xã hội về bản chất của nó, là
chế độ xã hội bảo đảm đầy đủ nhất “dân quyền”, bởi
vì đó là xã hội của dân, do dân và vì dân. Nhưng việc xây dựng một chế độ như
thế không thể ngày một, ngày hai, mà là cả một quá trình phức tạp với không
ít khó khăn. Bởi vì, dân quyền có được không chỉ do cơ chế quyền
lực, chế độ chính trị, mà còn phụ thuộc vào sự tự giác, trình độ nhận thức của
người dân và những điều kiện của môi trường xã hội.
Có nghĩa là, hiểu dân quyền theo
nhận thức văn hóa không chỉ là những quyền và lợi mà nền chính trị mang lại
cho người dân, đó còn là cách mà những quyền đó được mang lại như thế nào và
ý nghĩa của những quyền và lợi ấy ra sao, có ý nghĩa tốt đẹp đến đâu đối với
xã hội. Văn hóa chính là nền tảng để phát triển, mở rộng dân quyền,
đồng thời dân quyền cũng tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển các giá trị
văn hóa của xã hội.
Trong thiết chế xã hội nói chung,
một mặt, vấn đề dân quyền gắn bó chặt chẽ hữu cơ với vấn đề nhà nước, là hệ
quả của nhà nước, phản ánh tính chất, đặc điểm, trình độ phát triển của nhà
nước; mặt khác, dân quyền không thể tách rời những điều kiện khách
quan của tồn tại xã hội như: trình độ nhận thức của người dân, những tập quán
và đặc điểm văn hóa của cộng đồng, các cơ sở kinh tế, kỹ thuật của xã hội.
Trong mối quan hệ thứ hai, các yếu tố quy định hay ảnh hưởng đến dân
quyền là những điều kiện lịch sử, cụ thể, gắn liền với tính chất, trình
độ phát triển của từng quốc gia, dân tộc. Đối với mối quan hệ thứ nhất, vấn
đề thực chất chính là nội dung, nhiệm vụ của việc xây dựng nhà nước. Khẳng
định tính chất nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do
dân và vì dân thì đương nhiên nó phải thể hiện ý chí của dân, bảo vệ các
quyền và lợi ích của dân, phục vụ cho các nhu cầu xã hội của dân.
Khi nói về tổ chức Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Để thực hiện tốt nhiệm
vụ cách mạng, Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính
trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm
cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước,
ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”.
Ở đây, “quyền dân chủ” gắn với “sinh hoạt chính trị của toàn dân” là yêu cầu
đặt ra với Nhà nước như một đòi hỏi khách quan về quyền công dân. Nhưng đến
lượt nó, “quyền dân chủ” và “sinh hoạt chính trị của toàn dân” lại trở thành
điều kiện cho Nhà nước hoàn thành nhiệm vụ của mình với việc làm cho nhân dân
tham gia tích cực giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn của Nhà nước. Từ bình
diện văn hóa, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự phát triển dân quyền vừa có ý
nghĩa như đòi hỏi, điều kiện cho sự phát triển văn hóa, vừa thể hiện mục đích
phục vụ cho con người công dân và sự phát triển toàn diện con người.
Hơn thế nữa, có thể nhận thấy rất
rõ rằng, quán xuyến trong toàn bộ tư tưởng cũng như trong hoạt động thực tiễn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chủ nghĩa trọng dân, ý thức tôn trọng, yêu
thương, bảo vệ nhân dân. Đó cũng chính là lý tưởng, hoài bão, là mục đích
sống của Hồ Chí Minh - Người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng nhân dân khỏi áp bức, bóc lột, mang lại hạnh phúc cho nhân
dân. Đó cũng chính là cốt lõi văn hóa sống Hồ Chí Minh. Vấn đề dân quyền chỉ
là một bình diện của tư tưởng ấy, một điều kiện để thực hiện mục đích phục vụ
nhân dân, một thể hiện của văn hóa sống nhân văn cao cả của lãnh tụ Hồ Chí
Minh.
Trở lại mối quan hệ thứ hai, tức là
xem xét các yếu tố quy định hay ảnh hưởng đến dân quyền như: điều
kiện lịch sử, cụ thể, gắn liền với tính chất, trình độ phát triển của từng
quốc gia, dân tộc. Nói cách khác, nội dung, mức độ, hình thức và khả năng
thực thi dân quyền không thể tách rời các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa
và truyền thống của các cộng đồng người, các dân tộc trong các thời đoạn lịch
sử. Điều ấy cũng có nghĩa là, cùng với việc Nhà nước mang lại ngày càng nhiều
quyền cho nhân dân thì cũng đồng thời phải tiến hành giáo dục, nâng cao nhận
thức, không ngừng cải thiện môi trường xã hội cho nhân dân. Văn hóa chính là
một yếu tố tạo nên môi trường xã hội. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
rằng, “trình độ văn hóa của cán bộ và nhân dân còn thấp, do đó, còn hạn chế
nhiều kết quả trong công tác, trong sản xuất” và nhiệm vụ đặt ra là “nâng cao
trình độ văn hóa của nhân dân”. Khi trình độ văn hóa của nhân dân được nâng
lên thì những điều kiện cho dân quyền cũng được cải thiện. Việc này đồng
nghĩa với việc không được áp đặt vô điều kiện những nội dung dân quyền mà
không tính đến những dị biệt về trình độ, tính chất và năng lực của những chủ
thể khác nhau.
Đối với nội dung “xây
dựng kinh tế”, Hồ Chí Minh không đặt ra tiêu chí định hướng như những lĩnh
vực khác. Nhưng theo cách đặt vấn đề từ những điểm trước đó có thể thấy, văn
hóa được Hồ Chí Minh coi là mục tiêu của xây dựng kinh tế, đồng thời văn hóa
cũng là nội lực mạnh mẽ của việc xây dựng nền kinh tế đó. Truyền thống văn
hóa, sức mạnh văn hóa trong nguồn nhân lực, trong trình độ tổ chức lao động
sản xuất, quản lý kinh tế xã hội, văn hóa trong kinh doanh, trong quan hệ
doanh nghiệp là động lực bên trong của quá trình kinh tế, của sự phát triển
xã hội và con người. Một nền kinh tế phát triển tốt đẹp, bền vững chỉ khi nó
gắn bó với những giá trị văn hóa, kết tinh trong nó những giá trị văn hóa,
làm giàu có thêm và thúc đẩy sự phát triển của những giá trị văn hóa của dân
tộc, của đất nước. ở một khía cạnh nào đó, có thể thấy tư tưởng phát triển
các lĩnh vực văn hóa của Hồ Chí Minh rất gần gũi với quan điểm phát triển bền
vững hiện đại.
Từ năm 1953, trong bài “Thường
thức chính trị”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Trong chế độ dân chủ
mới, có năm loại kinh tế khác nhau:
A - Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ
nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B - Các hợp tác xã (nó là nửa chủ
nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C - Kinh tế của cá nhân, nông dân
và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã
hội).
D - Tư bản của tư nhân.
E - Tư bản của Nhà nước (như Nhà
nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh)”(13).
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhìn nhận từ rất sớm mô hình nền kinh tế đa thành phần sở hữu trong chế độ
của chúng ta. Sự đa thành phần trong nền kinh tế tất yếu kéo theo những yếu
tố văn hóa vốn có, vốn đang tồn tại cùng những mối quan hệ xã hội giữa các
thành phần kinh tế đó. Vậy thì cái gì làm nên sự phân biệt giữa chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa với một chế độ xã hội phát triển kinh tế đa thành phần khác?
Phải chăng đó chính là yêu cầu, đòi hỏi về xây dựng văn hóa, hướng con người
tới một đời sống văn hóa cao thượng, nhân văn, một lối sống theo chủ nghĩa
tập thể ở ý nghĩa tích cực của khái niệm đó.
Mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã
hội là giải phóng con người, mang lại cho con người cuộc sống tự do, sự phát
triển toàn diện và vì thế mà mang lại cho con người nhiều hạnh phúc nhất. Đó
là một mục tiêu cao cả, nhân văn nhất. Nhưng: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội
thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa
và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải
đi trước. Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng
cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(14). Nói cách khác, cần
phải phát triển kinh tế để bảo đảm “cơm ăn”, đời sống vật chất cho nhân dân.
Nhưng nền kinh tế ấy không tách rời các nội dung, ý nghĩa của việc xây dựng
văn hóa và nói cho cùng thì nó phải phục vụ cho mục đích phát triển văn hóa
của nhân dân. Và để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải đấu
tranh, xây dựng, phát triển, phải tiến hành một cuộc cách mạng thật sự. Trong
cuộc cách mạng đó, văn hóa luôn có ý nghĩa trọng yếu, quyết định. Đó vừa là
điều kiện, nền móng cho sự xây dựng, phát triển của đời sống xã hội, vừa là
mục tiêu hướng tới trong quan hệ hài hòa với đời sống vật chất.
Tóm lại, có thể nói,
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa sâu xa, đặc biệt quan trọng
trong chiến lược phát triển của đất nước. Nó không chỉ là mục tiêu phấn đấu
vươn tới những giá trị cao đẹp cho cuộc sống mà còn có vai trò nền tảng và
sức mạnh động lực hết sức to lớn trong phát triển các bình diện đời sống xã
hội. Văn hóa là sức sống của sự phát triển kinh tế - xã hội, là động lực thúc
đẩy mọi hoạt động sống của con người. Những quan điểm về văn hóa trong chiến
lược phát triển đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là “kết tinh của
truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam”, mà còn có ý nghĩa
thời sự, là chỗ dựa, sự chỉ dẫn cho chúng ta trong nhận thức và giải quyết
những vấn đề đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
VĂN HOÁ LÀ MỤC TIÊU CỦA
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI – QUAN ĐIỂM NHẤT QUÁN CỦA ĐẢNG TA
Báo cáo viên: PGS, TS Đoàn Thế Hanh
Văn hóa, xét đến cùng bản chất của nó là “trình độ được vun
trồng” ngày càng hoàn thiện, toàn diện của con người về cả thể lực, trí tuệ,
đạo đức, thẩm mỹ, tinh thần…, và xã hội loài người với tất cả các mối quan hệ
vốn có của nó theo thước đo tiên tiến nhất của thời đại.
Xét về mặt xã hội, mục tiêu giải phóng con người, vì hạnh
phúc thật sự của con người, hướng tới một xã hội “trong đó sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”
với những chuẩn mực đạo đức đẹp, cao thượng, lành mạnh…; những hành vi nhân
văn; sức lao động, sáng tạo của con người đạt hiệu quả cao... là lý tưởng cao
cả, là mục tiêu cuối cùng của loài người tiến bộ. Những đặc trưng đó chỉ có
thể hiện hữu trong một xã hội mà sự phát triển hướng vào lợi ích của tất cả
nhân dân lao động và họ là chủ nhân chân chính của đất nước. Đó chính là xã
hội Cộng sản chủ nghĩa mà các nhà sáng lập Chủ nghĩa cộng sản khoa học cho
rằng đó là hình thái kinh tế – xã hội mà sự phát triển toàn diện, không hạn
chế của mỗi người đang trở thành mục đích trực tiếp của sự phát triển của nó.
Chủ nghĩa cộng sản là xã hội mà lực lượng sản xuất phát triển phi thường, có
khả năng sản xuất dồi dào các vật phẩm tiêu dùng, khiến có thể thực hiện được
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng sản: “làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu”. Nhưng chủ nghĩa cộng sản không chỉ đơn thuần tạo ra sản phẩm dồi dào
đến mức mỗi người có thể thỏa mãn nhu cầu riêng của mình; đó là một xã hội
đào tạo những con người có nhân cách, có khả năng sáng tạo hết sức đa dạng.
Con người ở đây không phải là kẻ tiêu thụ, muốn chiếm lấy và sử dụng thật hết
sức nhiều vật phẩm tiêu dùng; trong con người đó phát triển những nhu cầu
thật là của con người, trước hết là nhu cầu hoạt động cải tạo, sáng tạo. Dưới
chủ nghĩa cộng sản, một xã hội đặt mục đích cho mình là biến mỗi người thành
một người sáng tạo, hoạt động của con người được thực hiện với tính cách là
một hoạt động chủ động, sáng tạo. Được giải phóng khỏi lao động nặng nhọc,
đơn điệu trong chính lĩnh vực sản xuất vật chất, mỗi thành viên trong xã hội
cộng sản chủ nghĩa sẽ có khả năng phát triển năng lực của mình một cách toàn
diện.
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa cộng sản khoa học dựa vào thành
tựu của các ngành khoa học đó dự báo một cách khoa học về một xã hội văn hóa
tương lai là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Xuất phát từ tư duy khoa
học duy vật biện chứng, bằng tấm lòng nhân văn cao cả của mình, các ông đã
khẳng định và tin tưởng rằng, với tất cả những phẩm chất và hành động tích
cực của mình, loài người sẽ xây dựng thành công và là chủ nhân chân chính của
một xã hội văn hóa. Vì vậy, với niềm tin vừa lý trí vừa tình cảm, C. Mác, Ph.
Ăng ghen đã sớm nêu rõ bản chất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội từ những kiến
giải kinh tế – xã hội, chính trị – triết học. Các ông cho rằng, hình thái
kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ được thay thế bằng một hình thái
cao hơn, hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai giai đoạn đầu
của nó là chủ nghĩa xã hội.
C. Mác và Ph. Ăng ghen đã từng bước xây dựng những luận điểm
cơ bản về chủ nghĩa xã hội, chỉ ra những phương hướng phát triển chủ yếu và
những đặc trưng bản chất của nó mà đặc trưng cơ bản nhất là xóa bỏ chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, giải phóng cho con người khỏi mọi tình trạng bị bóc
lột về kinh tế, bị áp bức về chính trị, bị nô dịch về tinh thần, tạo điều
kiện cho con người có thể tận lực phát triển mọi khả năng sẵn có của mình.
V.I. Lê-nin phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh đã chuyển sang chủ nghĩa tư
bản độc quyền, tức giai đoạn đế quốc chủ nghĩa với đầy rẫy tính chất phi văn
hóa. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa xã hội đã
từ lý luận trở thành hiện thực xã hội. Chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế
độ xã hội, sau khi đã hoàn thiện sẽ là bước phát triển cao hơn và tốt đẹp hơn
so với chủ nghĩa tư bản. Có thể nói, V.I. Lê-nin là người đầu tiên biến khát
vọng về một xã hội văn hóa trở thành khả thi cho nước Nga nói riêng, loài
người nói chung.
Sinh ra và lớn lên khi tổ quốc mình đang trong vòng nô lệ,
dân lầm than cơ cực, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành yêu nước, thương dân,
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước nhà được độc lập, nhân
dân được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó không gì
khác hơn là một xã hội văn hóa. Vì vậy, Người quyết định ra ngoài xem các
nước họ làm ăn thế nào để trở về giúp đồng bào giải phóng dân tộc. Chủ tịch
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội khoa học từ quan điểm duy vật lịch sử
của Mác, nghĩa là từ học thuyết hình thái kinh tế – xã hội và từ sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân – giai cấp trung tâm của thời đại mới. Nói cách
khác, Người đã tiếp thu những quan điểm của các tác giả kinh điển về bản chất
và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Chủ
tịch Hồ Chí Minh còn tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống văn hóa dân tộc, nên cũng bổ sung những nét riêng của mình về
bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội:
- Từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lê-nin,
học thuyết khoa học và cách mạng con đường chân chính để giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội và giải phóng loài người. Người đã viết: “…chỉ có chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
giai cấp công nhân toàn thế giới”.
Rõ ràng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ có chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại, mới thực sự đem lại độc lập, tự
do, bình đẳng cho các dân tộc.
- Từ phương diện đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng chủ
nghĩa xã hội là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, nó bảo đảm cho sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã
hội. Giai cấp công nhân chẳng những đấu tranh để tự giải phóng mà còn để giải
phóng cho cả loài người khỏi áp bức, bóc lột. Lợi ích của giai cấp công nhân
và lợi ích của nhân dân là thống nhất. Chủ nghĩa xã hội vì vậy xa lạ và đối
lập với chủ nghĩa cá nhân. Người nói, chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn
cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội
không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Người lên án mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân, một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã
hội, và kêu gọi phải tiêu diệt nó, nhưng Người không hề phủ nhận cá nhân,
trái lại, Người rất chăm lo đến nhu cầu và lợi ích của cá nhân, đề cao năng
lực và phẩm chất của mỗi cá nhân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không có chế độ
nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm
cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Người cổ vũ: Có gì
sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người. Như vậy,
đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cao cả nhất là đạo đức cách mạng, đạo
đức giải phóng dân tộc, giải phóng loài người. Chủ nghĩa xã hội, vì vậy cũng
là giai đoạn phát triển mới của văn hóa đạo đức.
- Từ truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam,
một quốc gia nông nghiệp lúa nước truyền thống với những đặc trưng: không
trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ với những dấu ấn hà khắc; là một quốc gia nhỏ
luôn phải đứng lên chống lại các thế lực ngoại xâm to lớn hơn mình nhiều lần
nhưng lại hung bạo và tàn ác, luôn có ý đồ đồng hóa dân tộc ta, muốn sáp nhập
nước ta vào lãnh thổ của chúng… Do đó, để tồn tại và phát triển, dân tộc Việt
Nam đã tạo cho mình truyền thống cố kết cộng đồng - nhân tố thuận lợi để đi
vào chủ nghĩa xã hội. Đây là nét văn hóa đặc thù Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, có truyền thống
trọng dân, khoan dung, hòa mục để hòa đồng. Văn hóa Việt Nam là văn hóa trọng
trí thức, hiền tài.
Con người Việt Nam hiền hậu, có tâm hồn trong sáng, giàu
lòng vị tha, yêu thương đồng loại, quý trọng con người, sống có tình, có
nghĩa…kết hợp được cái chung với cái riêng, gia đình với Tổ quốc, dân tộc và
nhân loại…
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất phát từ khát vọng nhân
văn và văn hóa đã giúp người đến với tư tưởng chủ nghĩa xã hội và lựa chọn
chủ nghĩa xã hội là chế độ để hướng dân tộc mình quyết tâm xây dựng và đi
tới. Người nhận thức rằng, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn
chủ nghĩa tư bản về mặt văn hóa và giải phóng con người ta. Nói văn hóa cũng
tức là nói tới con người – chủ thể của văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
coi trọng xây dựng con người, tình người, mối quan hệ nhân văn giữa người với
người, chú trọng nâng cao lý tưởng, đạo đức, văn hóa, khoa học cho con người,
vì con người, khát khao chiến đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa thì mới có
chủ nghĩa xã hội – xã hội văn hóa.
Như vậy, mục tiêu cuối cùng của một xã hội tiên tiến thống
nhất với bản chất của một nền văn hóa tiến bộ, lấy việc phát triển con người
là mục đích cao nhất. Đây không phải là sự gặp gỡ ngẫu nhiên mà là một xu
hướng tất yếu nảy sinh trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển đúng quy
luật của nhân loại. Điều đó, một lần nữa góp thêm tiếng nói khách quan khẳng
định chủ nghĩa Mác – Lê-nin là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại, hàm chứa những
giá trị văn hóa cao mà loài người hướng tới. Và qua đó cũng khẳng định rằng
văn hóa là mục tiêu của loài người hướng tới.
Văn hóa là mục tiêu
của sự phát triển đã được chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cụ thể
hóa bằng những nhận thức về đặc trưng, bản chất của xã hội văn hóa – xã hội
xã hội chủ nghĩa. Đây là giai đoạn đầu để tiến đến chủ nghĩa cộng sản, xã hội
với đặc trưng bao trùm là văn hóa hoàn thiện nhất, xã hội tốt đẹp nhất thỏa
mãn mọi nhu cầu chính đáng của con người. Xã hội văn hóa này được các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin nêu rõ một số đặc trưng sau:
- Xóa bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết
lập chế độ sở hữu công cộng để giải phóng cho sức sản xuất xã hội phát triển.
- Có một nền công nghiệp đại cơ khí với trình độ khoa học
và công nghệ hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp, tạo ra năng suất lao
động cao hơn chủ nghĩa tư bản.
- Thực hiện sản xuất có kế hoạch, tiến tới xóa bỏ sản xuất
hàng hóa trao đổi tiền tệ (quan niệm này về sau đã được điều chỉnh với chính
sách Kinh tế mới của Lê-nin).
- Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, thể hiện sự
công bằng về lao động và hưởng thụ.
- Khắc phục dần sự
khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc
và lao động chân tay, tiến tới một xã hội tương đối thuần nhất về giai cấp.
- Giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, nâng
cao trình độ tư tưởng và văn hóa cho nhân dân, tạo điều kiện cho con người
tận lực phát triển mọi khả năng sẵn có của mình.
- Sau khi đã đạt được những điều nói trên, khi giai cấp
không còn nữa thì chức năng chính trị của nhà nước sẽ dần dần tiêu vong.
Những phán đoán khoa
học nói trên về một xã hội tương lai mà nhân loại hướng tới là những đặc
trưng phản ánh tính văn hóa cao của một xã hội.
Là người học trò sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh thống nhất
với các bậc thầy Mác – Lê-nin về bản chất văn hóa của chủ nghĩa xã hội, đó là
xã hội: do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao; văn hóa
đạo đức trong sáng, cao thượng; các quan hệ bình đẳng, công bằng và hợp lý;
đó là công trình tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, nhận thức của Chủ tịch Hồ chí Minh về chủ nghĩa xã
hội là một xã hội phát triển, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh và đạo đức, một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch sử. Chế độ ấy
đồng nhất với văn hóa và là mục tiêu của phát triển. Trong thực tế ta thấy,
để có một sự phát triển lành mạnh cần một hệ điều chỉnh, một định hướng nhân
văn xã hội. Nói cách khác, văn hóa phải trở thành mục tiêu của sự phát triển
kinh tế – xã hội. Sự phát triển kinh tế phải đưa tới hiệu quả xã hội tốt. Lý
thuyết về sự phát triển, do đó có sự thay đổi. Trước đây, nói đến phát triển,
nhiều người chỉ nghĩ tới yếu tố kinh tế và kỹ thuật, và tiêu chí của sự phát
triển chỉ là thu nhập bình quân theo đầu người, thì ngày nay nhân loại đã đi
tới một quan niệm mới về phát triển: coi trọng các yếu tố nhân văn, xã hội.
Sự phát triển là sự thay đổi, nhưng đó là sự thay đổi đem lại cuộc sống phồn
vinh, có chất lượng được cộng đồng chấp nhận. Đằng sau chỉ tiêu kinh tế phải
là hàng loạt các chỉ tiêu về đời sống cụ thể của con người: tuổi thọ bình
quân, trình độ học vấn chung của xã hội, vấn đề an sinh xã hội, môi trường xã
hội và môi trường tự nhiên… Nói văn hóa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế
là nói đến tính chất chính trị của nền kinh tế, là nói nền kinh tế đó thuộc
về ai và phục vụ cho ai. Trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không hướng
sự phát triển kinh tế vào việc cải thiện đời sống của nhân dân lao động. Mục
tiêu của nó là mang lại lợi ích tối đa cho các nhà tư bản, các công ty và tập
đoàn tư bản. Khi một nền kinh tế chỉ phục vụ cho thiểu số và đối lập với
quyền lợi của đa số thì nền kinh tế đó không thể mang lại hiệu quả xã hội tốt.
Việc xa rời mục tiêu văn hóa sẽ biến sự tăng trưởng kinh tế thành môi trường
thuận lợi cho lối sống hưởng thụ và chủ nghĩa thực dụng. Nền kinh tế lấy văn
hóa và con người làm động lực và mục tiêu đòi hỏi phải thường xuyên quan tâm
đến hiệu quả xã hội của hoạt động kinh tế, coi phát triển kinh tế là điều
kiện để phát triển và hoàn thiện con người, phát triển và hoàn thiện xã hội.
Thực tế phát triển của chủ nghĩa tư bản đã minh chứng rằng,
giai cấp tư sản khôn ngoan sử dụng văn hóa như một phương tiện cho tăng
trưởng kinh tế, nhưng họ không coi văn hóa là mục tiêu của sự phát triển.
Như đã khẳng định, chủ nghĩa xã hội, về bản chất là một
hình thái kinh tế xã hội phát triển, một trạng thái văn hóa cao của lịch sử.
Chủ nghĩa xã hội đích thực đòi hỏi phải sử dụng tối đa các thành tựu văn hóa
của nhân loại, và phải vì lợi ích tối đa của con người. Chỉ có như vậy, chủ
nghĩa xã hội mới thực sự đạt tới mục tiêu “sự phát triển tự do của mỗi người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”.
Trong đường lối đổi mới của mình vấn đề văn hóa ngày càng
được Đảng ta quan tâm. Nhân tố văn hóa đã từng bước tham gia vào sự phát
triển kinh tế – xã hội. Các Đại hội Đảng VII, VIII, IX, X, XI đều đặc biệt
quan tâm đến việc phát huy nguồn nội lực, coi đó là cơ sở của sự phát triển
kinh tế – xã hội. Nói phát huy nội lực là nói phát huy các tiềm năng của con
người, của văn hóa dân tộc, coi đó là tài sản quý giá của quốc gia. Các Hội
nghị Trung ương bốn khóa VII, Trung ương hai, Trung ương năm, Trung ương sáu
(lần 2) khóa VIII; Trung ương năm, Trung ương mười (khóa IX), Trung ương năm
khóa X đã ra các nghị quyết quan trọng về phát triển văn hóa và giáo dục -
đào tạo, khoa học công nghệ, về tư tưởng – lý luận, về xây dựng và chỉnh đốn
Đảng… Các văn kiện Đảng đã khẳng định: Văn hóa…vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; yêu cầu “ bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không
ngừng nâng cao văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển
đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự
phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” (Kết luận Hội nghị lần thứ
mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX); coi phát triển giáo dục - đào tạo,
khoa học – công nghệ là “quốc sách hàng đầu”; “đầu tư cho văn hóa, giáo dục -
đào taọ, khoa học - công nghệ là đầu tư cho phát triển”; “ xây dựng và phát
triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con
người phát triển toàn diện”; “gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ
xây dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua cuộc vận động lớn về xây dựng đạo đức, lối
sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh” v.v..
Quán triệt và thực
hiện tốt định hướng trên đây sẽ góp phần sớm thực hiện tốt mục tiêu văn hóa
của việc phát triển kinh tế – xã hội
một cách bền vững của nước ta hiện nay theo tinh thần Đại hội XI của
Đảng.
Quá trình đổi mới văn hóa đã được những người “ưu thời mẫn
thế” quan tâm trong suốt cả thế kỷ 20, nhưng tới những năm cuối thế kỷ, thì
đòi hỏi đổi mới văn hóa, đổi mới tư duy và lối sống của con người trở thành
sự thúc bách gay gắt.
Nhận định trách nhiệm trước lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nêu cao trách nhiệm của mình trong định hướng đổi mới đất nước, đổi mới
văn hóa dân tộc.
Bản thân đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo chính là văn
hóa. Đồng chí Phạm Văn Đồng từng nói: Đổi mới là văn hóa, văn hóa là đổi mới.
Không có khoảng cách giữa đổi mới tồn tại xã hội và đổi mới ý thức xã hội;
mặt này là tiền đề và điều kiện của mặt kia và ngược lại.
Chính vì vậy, đổi mới trong văn hóa có một ý nghĩa đặc
biệt, liên quan toàn bộ sự nghiệp đổi mới đất nước.
Đảng đã có nhiều văn kiện ảnh hưởng đổi mới sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hóa, trong đó quan trọng nhất là Nghị quyết Trung ương
5 về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (1998)
và Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 về công tác văn hóa (2003). Cùng với
hai văn kiện trên, việc Nhà nước ta chấp nhận tham gia Chương trình Thập kỷ
phát triển văn hóa của Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của Liên hợp
quốc (UNESCO) trong những năm cuối thế kỷ 20 đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
đổi mới văn hóa theo kịp bước phát triển của đất nước và thời đại.
Đại hội VI của Đảng (1986) - Đại hội đổi mới đất nước - đã
đặt lên hàng đầu. Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, mà cụ thể là
đổi mới cung cách làm ăn, xây dựng cuộc sống, một nội dung cơ bản, lâu đời
của văn hóa Việt Nam. Bắt đầu từ Đại hội VI trong quan niệm của người cộng
sản Việt Nam, văn hóa không tách rời với đổi mới kinh tế đã trở thành mục
tiêu và động lực của đổi mới đất nước. Hiểu văn hóa không chỉ là nhân tố di
dưỡng đạo đức, tinh thần xã hội mà còn là sức mạnh thúc đẩy kinh tế - xã hội,
góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội là một bước phát triển mới trong tư
duy của Đảng, Nhà nước ta về vai trò, vị trí của văn hóa. Giáo sư Nguyễn Hồng
Phong qua nghiên cứu lịch sử dân tộc khẳng định: nguồn gốc của sự nghèo khó
của dân tộc nằm trong văn hóa. Nhiều nhà văn hóa, nhà trí thức khoa học yêu
cầu đặt lại vai trò của văn hóa, vai trò của con người trong ợư nghiệp phát
triển, lần đầu tiên, các văn bản của Đảng, Nhà nước nói nhiều đến “nhân tố
con người”. Nhân tố con người, gắn liền thế giới văn hóa tinh thần của nó,
được coi là nhân tố chủ đạo sự phát triển. Đề cao nhân tố con người, đề cao
văn hóa dân tộc đó là một thành công của tư duy đổi mới những năm qua.
Không dừng lại ở việc nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò
to lớn của văn hóa đối với quá trình đổi mới đất nước. Kết luận của Hội nghị
Trung ương 10 về công tác văn hóa (2003) còn xác lập vị trí của công tác văn
hóa, hình thành một kết cấu chặt chẽ và đồng bộ giữa nhiệm vụ kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với xây dựng văn hoá - nền tảng tinh
thần của xã hội, tạo thế chân vạc vững chắc cho quá trình phát triển đất
nước.
Gắn liền với nhận thức mới về vai trò, vị trí của văn hóa
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là quan niệm ngày càng sâu sắc,
đầy đủ hơn về phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Nói vắn
tắt, đó là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong nền văn hóa
đó, hai yếu tố cơ bản là tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc đã phản ánh mối
liên hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của văn hóa trong quá trình vận
động, phát triển đã được thể hiện đầy đủ.
Để đáp ứng đòi hỏi chân - thiện - mỹ của dân tộc và yêu cầu
của thời đại, nền văn hóa đó nhất thiết phải mang bản chất tiên tiến trong cả
nội dung và hình thức, hiện thân của chủ nghĩa yêu nước và tiến bộ xã hội,
phải thể hiện lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải kết hợp được những giá trị lâu
đời của dân tộc và tinh hoa của thời đại. Mặt khác, đó phải là nền văn hóa
“đậm đà bản sắc dân tộc”, để có thể hội nhập, giao lưu với thế giới hiện đại
mà không rời xa những giá trị bền vững của dân tộc đã hun đúc qua lịch sử làm
nên cốt cách, vóc dáng tốt đẹp của văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam. Cả
hai yếu tố “tiên tiến” và “đậm đà bản sắc dân tộc” là hai mặt của một chỉnh
thể, bổ sung cho nhau, làm điều kiện để thúc đẩy nhau cùng phát triển, làm
cho văn hóa Việt Nam không ngừng đơm hoa, kết trái trong đời sống xã hội hiện
đại.
Thực tế đổi mới 20 năm qua cho thấy phương hướng xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được thừa nhận trong chính
cuộc sống, được sự nhất trí của nhân dân và đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ,
những người hoạt động văn hóa.
Ngày nay đứng trước quá trình toàn cầu hóa và bùng nổ thông
tin, mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, sâu sắc, phương hướng xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc càng tỏ rõ sức sống vững
vàng của nó, mở đường cho nhân dân ta vượt qua thách thức, vươn tới những
đỉnh cao của văn minh và tiến bộ.
Hướng tới một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
cũng chính là hướng đến một nền văn hóa của nhân dân, của các dân tộc trong
một quốc gia đa dân tộc, thống nhất mà đa dạng, không ngừng dân chủ hóa và xã
hội hóa phương thức hoạt động bảo đảm quá trình sáng tạo đến tay mội người,
thành quả sáng tạo đối với mỗi người, làm cho xã hội nước ta đạt tới một đời
sống văn hóa cao, dân trí phát triển, lối sống lành mạnh.
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động văn hóa là một
thành tựu rõ nét của quá trình xây dựng văn hóa 20 năm qua. Từ chỗ quan niệm
văn hóa có quan hệ chặt chẽ với lĩnh vực chính trị, tư tưởng do Nhà nước tổ
chức để phục vụ nhân dân, chúng ta đã xây dựng các hoạt động văn hóa thông
tin, khoa học, giáo dục,... thành sự nghiệp của toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu
lợi ích chính đáng của mọi người dân, đã thu hút tài năng, sáng kiến, công
sức của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng văn hóa. Phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa”, hoạt động văn hóa trong mỗi khu dân cư, trong
các làng bản văn hóa, gia đình văn hóa... đã trở thành cuộc vận động văn hóa
rộng rãi, đi dần vào nền nếp. Cho đến cuối năm 2004, cả nước đã có 13.162
làng văn hóa, 9,9 triệu gia đình văn hóa, 19.150 cơ quan văn hóa đã được công
nhận; 5.128 nhà văn hóa, 6.750 điểm bưu điện - văn hóa được xây dựng; hơn 51
nghìn bản hương ước, quy ước văn hóa thôn xóm được phê duyệt; 2.792 di tích
văn hóa được xếp hạng quốc gia. Đã có sáu di sản văn hóa và thiên nhiên nước
ta được đưa vào danh mục di sản thế giới. Nhiều di tích văn hóa lịch sử đặc
biệt quan trọng của nước ta đã được phát hiện và trùng tu tôn tạo như Hoàng
thành Thăng Long, Cung đình Huế, Đền Hùng, các đền tháp Chăm Pa... Những
thành tựu mới về văn hóa, về tuổi thọ đã góp phần nâng cao chỉ số phát triển
con người (HDI) của nước ta. Năm 2005, chỉ số phát triển con người của Việt
Nam được xếp vị trí 108 trong 177 nước nâng lên bốn bậc so với năm trước.
Tuổi thọ của con người Việt Nam từ 63 tuổi (năm 1990) lên 71,3 tuổi (năm
2005)... Điều đó cho thấy, trong khi thu nhập bình quân đầu người của Việt
Nam còn thấp (630 USD/người) thì những tiến bộ về văn hóa, lối sống cũng đã
đưa chỉ số phát triển con người của Việt Nam cao hơn những nước có mức thu
nhập tương đương.
Trong văn hóa, hoạt động thông tin và văn học nghệ thuật
luôn luôn là nhân tố năng động, có tác động thường xuyên lên nhận thức và
tình cảm con người. Với sự tham gia của 15 nghìn nhà báo và 17 nghìn văn nghệ
sĩ hoạt động trong lễ hội văn học nghệ thuật Trung ương, các hoạt động báo
chí, xuất bản, văn học nghệ thuật nước ta đã trở nên sôi nổi, phong phú, lôi
cuốn ngày càng rộng rãi sự hưởng ứng của toàn xã hội. Hệ thống phát thanh đã
đáp ứng hơn 90% và truyền hình hơn 85% nhu cầu thông tin của nhân dân cả nước;
hệ thống in-tơ-nét mở rộng nhanh chóng với gần 10% dân số truy cập; hệ thống
xuất bản đã cung cấp được hơn 3,5 bản sách/đầu người. Chúng ta đã có những
cuộc thi tìm hiểu truyền thống cách mạng, thu hút hơn một chục triệu người
tham gia, nhũng tập nhật ký của Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc in trên 200
nghìn bản; những lễ hội dân tộc hàng vạn người tham dự những chương trình âm
nhạc qua sóng truyền hình có hàng vạn người theo dõi, những nghệ sĩ trẻ được
xã hội chào đón từ những tác phẩm đầu tiên... Quyết tâm và lòng tin vào sự
nghiệp đổi mới văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, văn hóa thông tin ngày
càng đậm nét trong tâm trí nhân dân và đội ngũ trí thức sáng tạo. Các tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp của giới trí thức, văn nghệ sĩ, báo chương mở
rộng sức tập hợp và nâng cao chất lượng hoạt động. Tinh thần tự do sáng tạo
và sự giúp đỡ vật chất của Nhà nước và xã hội cho hoạt động văn học nghệ
thuật, báo chí, xuất bản ngày càng thiết thực, có hiệu quả. Phong trào văn
hóa, văn nghệ quần chúng và các hình thức, sáng kiến xây dựng văn hóa trong
nhân dân phong phú, sinh động hơn trước.
Trong thành tựu chung, những chuyển biến trong xây đựng văn
hóa các dân tộc thiểu số là rất đáng kể. Ý thức về bình đẳng dân tộc, mối
quan tâm về những giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số và quyết tầm nâng cao
mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân các dân tộc anh em là những chuyển biến có
ý nghĩa. Nhà nước đã có nhiều chính sách để đưa sản phẩm văn hóa, thông tin
đến vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số. Công tác sưu tập bảo tồn
văn hóa dân tộc được đẩy mạnh. Các chương trình phát thanh, truyền hình quốc
gia và địa phương đã phát sóng hàng chục ngôn ngữ dân tộc. Các lễ hội văn hóa
dân tộc được tổ chức. Con em các dân tộc thiểu số được tạo điều kiện đến
trường. Nếp sống văn minh được hình thành trong nhiều thôn bản. Nếu nói một
chính sách văn hóa đúng là khi chính sách đó được cộng đồng yếu thế nhất tiếp
nhận và tham gia, thỉ sự phát triển văn hóa, tinh thần trong đồng bào dân tộc
thiểu số vừa qua đã chứng minh thắng lợi của đường lối, chính sách đổi mới
trong sự nghiệp văn hóa Việt Nam.
Những tiến bộ đạt được không tách rời quá trình đổi mới tư
duy quản lý văn hóa của nước ta. Cùng với nhiều ngành quản lý khác, quản lý
văn hóa đặt trọng tâm vào ban hành, hướng dẫn và thực thi luật pháp. Trong 20
năm qua, các cơ quan quản lý nhà nước đã ban hành hàng trăm văn bản luật pháp
liên quan sự nghiệp văn hóa, trong đó đáng chú ý là các văn bản luật pháp
trực tiếp quy định công tác báo chí, xuất bản, bản quyền, di sản văn hóa, thư
viện, điện ảnh, quảng cáo, biểu diễn, nghệ thuật... Những quy định luật pháp
đã mở đường cho sự tham gia của xã hội vào các hoạt động văn hóa, giữ vững
định hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời
đẩy lùi những tiêu cực, sai trái trong hoạt động văn hóa. Bên cạnh luật pháp,
nhiều chính sách phát triển văn hóa được ban hành, hệ thống thiết chế văn hóa
cơ sở được tăng cường. Nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hoá trong Đảng gắn liền
với Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao phẩm chất đảng viên đã
góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới văn hóa nói riêng.
20 năm đổi mới không phải là dài nhưng đối với đời sống văn
hóa dân tộc và sự phát triển tinh thần của con người, nhưng sự chuyển mình
của văn hóa Việt Nam và thành tựu bước đầu của văn hóa dân tộc đã cho thấy
đường lối đổi mới văn hóa của Đảng là đúng đắn, quy tụ được năng lực sáng tạo
và tâm hồn nhân dân, xây dựng lòng tin, mở ra hướng phát triển tích cực và
lành mạnh trong những thập kỷ đầu của thiên niên kỷ mới.
Tuy nhiên, những vấn nạn của một nước kém phát triển, đang
trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế còn in dấu ấn không nhỏ lên đời
sống văn hóa. Để khắc phục khó khăn và thách thức, quá trình đổi mới văn hóa
trong chặng đường sắp tới cần quan tâm giải quyết những vấn đề sau:
Một là, sự hình thành bước đầu thị trường văn hóa và mở
rộng xã hội hóa hoạt động văn hóa đang đặt chúng ta trước những trách nhiệm
nặng nề và thách thức không nhỏ đối với năng lực quản lý và trình độ tổ chức
hoạt động của đội ngũ cán bộ văn hóa. Bên cạnh những thành tựu không thể
tranh cãi đạt được trong điều kiện cơ chế mới, hoạt động văn hóa hiện nay còn
bộc lộ những xu hướng không lành mạnh, có mặt khá nghiêm trọng. Đó là xu
hướng “thương mại hóa” - nói thẳng ra là xu hướng chạy theo lợi nhuận, coi
thường chất lượng ăn hóa đã lan tràn trong nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Hiện tượng “đạo văn, đạo nhạc”, vi phạm bản quyền, làm dối, làm ẩu, lén lút
lưu hành văn nghệ đồi trụy, độc hại, kể cả mại dâm, ma túy... đang làm vẩn
đục môi trường văn hóa một số thành phố lớn. Trong khi đó, công tác quản lý
văn hóa không theo kịp tình hình, tỏ ra lúng túng, bị động. Một số nơi nhận
thức không đúng tính đặc thù của thị trường văn hóa, đánh đồng sản phẩm, dịch
vụ văn hóa với các hàng hóa thông thường khác, có xu hướng buông lỏng quản lý
chất lượng tư tưởng, không chăm sóc, đầu tư nâng cao chất lưọng văn hóa. Rõ
ràng yêu cầu đổi mới và nâng cao trình độ quản lý văn hóa là yêu cầu cực kỳ
quan trọng nhằm đảm bảo trong điều kiện mới, văn hóa nước ta phát triển lành
mạnh, đúng hướng.
Hai là, nhìn chung chất lượng báo chí, xuất bản, các hoạt
động văn học nghệ thuật của ta chưa cao, chúng ta còn thiếu những tác phẩm có
tính tư tưởng cao, hình thức nghệ thuật hấp dẫn, có sức cổ vũ rộng rãi công
chúng. Điều đó đòi hỏi sự nỗ lực sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ và những
người cầm bút, yêu cầu tăng cường công tác phê bình lý luận văn học - nghệ
thuật và văn hóa, đồng thời phải có chính sách giúp đỡ cụ thể của nhà nước và
xã hội đối với văn hóa, nhất là đối với các lĩnh vực nghệ thuật truyền thống,
những loại hình văn hóa nghệ thuật thể nghiệm, những chính sách hỗ trợ tài
năng... Đổi mới hoạt động của các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa nghệ
thuật nhằm nâng cao chất lượng sáng tác cũng là một đòi hỏi cấp thiết.
Ba là, toàn cầu hoá về kinh tế và quá trình hội nhập quốc
tế đang tạo ra cơ hội và thách thức không nhỏ đối với văn hóa nước ta. Tác
động của văn hóa nước ngoài vào nước ta khá thường xuyên, với nhiều con
đường, nhất là trên mạng in-tơ-nét, với cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, tuy
nhiên ứng phó của ta còn thiếu chủ động, thiếu một chiến lược vững chắc. Ngày
nay không thể chủ trương đóng cửa về văn hóa, nhưng tiếp nhận văn hóa nước
ngoài như thế nào, giới thiệu văn hoá Việt Nam ra nước ngoài ra sao, đấu
tranh với âm mưu, thủ đoạn chống phá văn hóa - tư tưởng trong kịch bản “diễn
biến hòa bình” của các thế lục thù địch như thế nào, là những vấn đề cần xử
lý ở phạm vi quốc gia, cả trong từng địa phương, cơ sở trong một chiến lược
cụ thể.
Bốn là, lý luận xây dựng một nền văn hoá mới dưới ánh sáng
tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề cần được bổ sung, hoàn chỉnh. Là người vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện nước ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã để lại di sản tư tưởng - văn hóa rất sâu sắc, độc đáo. Một phần cơ
bản nội dung tư tưởng của Người đã được vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và
đổi mới văn hóa vừa qua. Tuy nhiên, việc nghiên cứu có hệ thống, soi sáng các
luận điểm cơ bản của Người dưới ánh sáng của thời đại để phát triển toàn diện
văn hoá nước nhà, nâng cao nhân tố con người Việt Nam, xây dựng nền tảng tinh
thần vững chắc của xã hội Việt Nam hiện đại còn là nhiệm vụ to lớn đặt ra ở
phía trước. Tin chắc rằng quá trình nghiên cứu, vận dụng và phát triển tư
tưởng của Người trên lĩnh vực văn hoá sẽ mở ra những tiềm năng phát triển mới
cho văn hóa nước nhà.
Cách đây 60 năm, trong ngày đầu của chính quyền mới - nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi văn hóa phải soi
đường cho quốc dân đi”. Đó là một câu nói bất hủ trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc, đổi mới đất nước, chấn hưng văn hóa.
Trong hành trình mới của dân tộc, chúng ta cần phải tiếp
tục nâng cao hơn nữa ngọn đuốc sáng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc mà linh hồn của nó là tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại, mở ra
bước phát triển ngày càng cao hơn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
VỀ CẢI CÁCH THỂ CHẾ VĂN HOÁ
Báo cáo viên: Mai Hải Oanh
1 - Cải cách thể chế văn hóa là tất
yếu để giải phóng và phát triển sức sản xuất văn hóa
Thể chế văn hóa là một chỉnh thể có
nội dung phong phú, là khái niệm chỉ hệ thống những luật định, quy chế, quy
định pháp quy về sản xuất, kinh doanh và quản lý văn hóa. Thể chế văn hóa
trước hết xuất phát từ yêu cầu của chính lĩnh vực văn hóa, nhưng nó chịu sự
quy định và chi phối của thể chế kinh tế và thể chế chính trị. Trong thời kỳ
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, thể chế văn hóa tất nhiên phải phù hợp
với mô hình kinh tế bao cấp, và trong điều kiện lịch sử bấy giờ, nó đã có
những đóng góp tích cực không thể phủ nhận. Tuy nhiên, kể từ khi thực hiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì thể chế văn hóa trước đây
tỏ ra không có hiệu quả. Biểu hiện rõ nhất của thể chế văn hóa cũ là quyền
lực quản lý chỉ tập trung vào tay Nhà nước, chế độ sở hữu và phương thức kinh
doanh đơn giản, bộ máy nhân sự xơ cứng, pháp chế văn hóa thiếu kiện toàn, chế
độ phân phối không công bằng, không khuyến khích được sức sáng tạo văn hóa
của đông đảo quần chúng nhân dân. Vì vậy, cùng với việc đổi mới thể chế kinh
tế và thể chế chính trị, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, chúng
ta đã tạo ra động lực to lớn cho phát triển văn hóa. Kinh nghiệm của hơn hai
mươi năm đổi mới càng cho thấy, phát triển văn hóa phải thích ứng với phát triển
kinh tế - xã hội, thể chế văn hóa phải thích ứng với thể chế kinh tế, cải
cách thể chế văn hóa phải thích ứng với thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thể chế văn hóa phản ánh quan hệ
sản xuất văn hóa, quan hệ phân chia lợi ích văn hóa và quyền lợi văn hóa giữa
các tầng lớp xã hội, giữa công dân và nhà nước. Quan hệ sản xuất văn hóa tất
nhiên phản ánh văn hóa quan hệ kinh tế, có ý nghĩa giải phóng sức sản xuất
văn hóa trong từng thời kỳ nhất định. Trước đây, trong nền kinh tế quan liêu
bao cấp, kiểu quan hệ sản xuất văn hóa tự bao tự tiêu cũng đã phần nào thỏa
mãn được nhu cầu văn hóa của nhân dân. Nhưng khi bước sang kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế văn hóa cũ không còn thích hợp và tất
nhiên, quan hệ sản xuất văn hóa trước đây không đáp ứng yêu cầu đổi mới về
quan hệ văn hóa, không đủ khả năng giải phóng và phát triển sức sản xuất văn
hóa như chúng ta mong muốn. Cải cách thể chế văn hóa, vì thế, trước hết là
đổi mới quan hệ sản xuất văn hóa lạc hậu không còn thích ứng với sức sản xuất
văn hóa xã hội tiên tiến, thông qua sự thay đổi của quan hệ này, giải phóng
tới mức tối đa sức sản xuất văn hóa. Sức sản xuất văn hóa mới không phải là
sức sản xuất văn hóa của một đơn vị hay cá nhân nào, mà là sức sản xuất văn hóa
của toàn dân tộc. Chỉ có giải phóng sức sản xuất văn hóa, sức sáng tạo tiềm
tàng trong quần chúng mới có cơ hội bùng nổ, thúc đẩy sự phát triển của ngành
công nghiệp văn hóa, thỏa mãn nhu cầu văn hóa ngày càng cao của nhân dân.
2 - Phương châm cải cách thể chế
văn hóa
- Nguyên tắc căn bản của cải cách
thể chế văn hóa
Nền văn hóa tiên tiến của chúng ta
lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm tư tưởng chỉ đạo, lấy
việc đào tạo công dân có lý tưởng, có đạo đức, có văn hóa, có kỷ luật làm mục
tiêu, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Nền văn hóa ấy phản ánh đặc trưng kinh tế, chính trị xã hội chủ nghĩa
nước ta, vì thế có tính chất xã hội chủ nghĩa rõ nét. Cải cách thể chế văn
hóa là sự tự hoàn thiện và phát triển của chế độ văn hóa xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, theo yêu cầu của xã hội văn minh, nắm bắt quy luật phát triển văn
hóa, học tập cách làm phát triển sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa
nước ngoài. Nhưng học tập kinh nghiệm của nước ngoài không có nghĩa là vọng
ngoại một cách máy móc, dập khuôn. Việc học tập, tiếp thu phải đi đôi với
việc chống lại các quan niệm văn hóa phản nhân văn, xa rời lợi ích dân tộc,
bảo đảm an ninh văn hóa và ổn định xã hội của nước ta. Vì vậy, đổi mới thể
chế văn hóa phải gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng, coi chế độ công hữu là
chủ thể bên cạnh việc xúc tiến đa dạng hóa chủ thể đầu tư văn hóa, tạo điều
kiện cho nhiều loại chế độ sở hữu cùng phát triển, thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ của văn hóa dân tộc. Về nguyên tắc, Nhà nước phải kiểm soát các doanh
nghiệp văn hóa lớn để giữ cho sự phát triển lành mạnh và đúng hướng. Tuy
nhiên, để tránh tình trạng nóng vội, duy ý chí trong cải cách thể chế văn
hóa, cần căn cứ vào tình hình thực tế của từng vùng, từng ngành nghề cụ thể,
thông qua biện pháp thí điểm, tích lũy kinh nghiệm, từ đó tiến hành phân
loại, từng bước thúc đẩy cải cách toàn bộ thể chế văn hóa. Ngoài ra, cần làm
tốt công tác chính trị tư tưởng, xử lý thỏa đáng các loại quan hệ lợi ích,
giữ gìn xã hội ổn định. Chỉ có như vậy mới có thể thúc đẩy sự phát triển sức
sản xuất văn hóa xã hội một cách mạnh mẽ.
- Cải cách thể chế văn hóa phải là
tạo sự hài hòa giữa hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế
Vấn đề cốt lõi trong cải cách thể
chế văn hóa là cần xử lý chính xác thuộc tính hình thái ý thức và thuộc tính
sản nghiệp của văn hóa để có chiến lược phát triển phù hợp. Phát triển văn
hóa đúng đắn đòi hỏi phải đặt hiệu quả xã hội lên vị trí hàng đầu, thực hiện
một cách hài hòa hiệu quả xã hội với hiệu quả kinh tế bằng cách sáng tạo nên
nhiều tác phẩm sâu sắc, vừa chịu được thử thách của thời gian, vừa đáp ứng
tốt yêu cầu ngày càng khó tính của thị trường văn hóa. Về điều này, Hội nghị
Trung ương 9 khóa X nhấn mạnh: "Tăng đầu tư của Nhà nước cho văn hóa;
đổi mới cơ chế tài chính, xã hội hóa, huy động các nguồn nhân lực cho phát
triển các hoạt động văn hóa. Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng Đảng với phát triển văn hóa, làm cho văn hóa thực sự
trở thành nền tảng tinh thần của xã hội”. Việc phát triển văn hóa trong cơ
chế thị trường đòi hỏi chúng ta phải vừa chú ý đến sự nghiệp văn hóa công
ích, vừa phát triển công nghiệp văn hóa kinh doanh, nhằm tạo nên những nguồn
lực mới cho văn hóa, bảo đảm quyền hưởng thụ văn hóa đa dạng của nhân dân.
Cần tiến hành phân loại một cách khoa học các ngành nghề và đơn vị khác nhau
trong lĩnh vực văn hóa, căn cứ vào đặc trưng của sự nghiệp văn hóa và công
nghiệp văn hóa để đề ra thể chế sự nghiệp và thể chế doanh nghiệp, từ đó có
biện pháp quản lý và xử lý thích hợp. Cần phát huy tính tích cực của các đơn
vị văn hóa, làm cho các đơn vị này có khả năng tự chủ về kinh tế, tránh sự
bao cấp quá mức của Nhà nước, làm cho văn hóa trở thành một lĩnh vực năng
động về phương cách hoạt động, hiệu quả về kinh tế, đáp ứng tốt yêu cầu của
xã hội.
3 - Tăng cường sức sống của các cơ
sở văn hóa
Cải cách thể chế văn hóa liên quan
đến rất nhiều phương diện. Một trong những vấn đề quan trọng nhất là tăng
cường sức sống của các cơ sở sản xuất và tiêu dùng văn hóa. Muốn thế, không
thể duy trì độc quyền quản lý và sản xuất văn hóa của Nhà nước mà cần cho phép
nhiều chủ thể cùng tồn tại. Để cải cách thể chế văn hóa hiệu quả, dứt khoát
phải tạo điều kiện mở rộng các kênh đầu tư và lưu thông vốn. Ở đây, có hai
vấn đề cần quan tâm. Một là, khuyến khích và mở rộng biên độ cho nhiều thành
phần kinh tế cùng tham gia hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thông qua cạnh
tranh công bằng giữa các loại hình sở hữu khác nhau mà loại bỏ các đơn vị văn
hóa kém năng động, hiệu quả đầu tư thấp, làm ăn thua lỗ... Hai là, từng bước
hoàn thiện tổ chức xử lý pháp nhân. Thực chất của tổ chức xử lý pháp nhân là
tạo nên kỷ cương trong lĩnh vực văn hóa và kinh doanh văn hóa, xác định trách
nhiệm của tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động văn hóa. Có rất nhiều đơn vị
văn hóa kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ nhưng không ai chịu trách nhiệm theo
kiểu "cha chung không ai khóc", trong khi đó, nhiều đơn vị làm ăn
hiệu quả lại không được ghi nhận xứng đáng, thành ra “hòa cả làng”. Hơn nữa,
thiếu tổ chức xử lý pháp nhân đủ mạnh, lĩnh vực văn hóa rất dễ bị một số
người thao túng, biến văn hóa trở thành một lĩnh vực thu lợi thuần túy, trong
khi mục đích tối thượng của văn hóa vẫn phải là mục đích và hiệu quả xã hội.
Tổ chức xử lý pháp nhân hiện đại, khoa học sẽ góp phần làm cho thể chế văn
hóa có đủ hiệu lực trong thực tiễn.
4 - Tăng cường lãnh đạo và thực thi
đồng bộ
Cải cách thể chế văn hóa là một
hoạt động có tính tổng hợp, có tính hệ thống cao, thể hiện mối liên hệ, gắn
bó nhiều mặt như lao động, nhân sự, tài chính, thuế, phân phối, bảo đảm xã
hội, quản lý hành chính... Do đó, phải tăng cường sự lãnh đạo nghiêm túc,
thực thi đồng bộ nhiều biện pháp nhằm tạo ra chính sách đủ mạnh cho cải cách
thể chế văn hóa. Trước hết, cải cách thể chế văn hóa phải tiến hành đồng thời
với đổi mới phương thức lãnh đạo văn hóa. Cần nhanh chóng đổi mới tư duy quản
lý văn hóa, tạo dựng quan điểm phát triển văn hóa khoa học: không bám lấy
tính đặc thù của văn hóa với tư cách là một hình thái ý thức để phủ nhận tính
sản nghiệp của nó, đồng thời không vì tính sản nghiệp của văn hóa mà phủ nhận
tính hình thái ý thức của nó. Nói gọn hơn, chúng ta phải xử lý chính xác mối
quan hệ này. Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện cho văn hóa về các mặt
xét duyệt hành chính, sử dụng đất đai, mở rộng và quản lý thị trường, đầu tư
lưu thông vốn, chính sách ưu đãi, nâng đỡ công nghiệp văn hóa phát triển,
kiện toàn pháp chế văn hóa, tạo ra môi trường pháp luật tốt đẹp cho cải cách
thể chế văn hóa. Thứ hai, cải cách thể chế phải song song với cải cách nghệ
thuật. Quan niệm lạc hậu về văn hóa , phương cách biểu hiện già nua, hình
thức đơn điệu, nhàm chán... đã làm người đọc, người xem thờ ơ, chán nản.
Nghĩa là về một phương diện nào đó, nó không còn đáp ứng được yêu cầu nghệ
thuật của nhân dân, hạn chế chiều sâu của cải cách thể chế. Thực tiễn đòi hỏi
chúng ta phải cùng lúc đẩy mạnh cải cách thể chế văn hóa, tích cực đổi mới
quan niệm, nội dung, hình thức, biện pháp phát triển văn hóa. Trước đây,
chúng ta bắt mọi người hưởng thụ những sản phẩm do chúng ta nghĩ ra, sản xuất
ra theo lối bao cấp. Trong nền kinh tế thị trường, chúng ta cần tính đến thị
hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng để sản xuất và quản lý sản phẩm văn hóa.
Đây là một thay đổi rất căn bản trong quan niệm về phát triển văn hóa. Thứ
ba, cải cách thể chế văn hóa phải song hành với xây dựng thị trường văn hóa.
Thể chế văn hóa của chúng ta lâu nay thường bị chia cắt, manh mún, mỗi nghề,
mỗi lĩnh vực có quy định một kiểu riêng mà chưa có sự chỉ đạo thống nhất ở
tầm vĩ mô và chưa thấm sâu tinh thần đổi mới. Điều đó làm ảnh hưởng đến tính
toàn cục của phát triển văn hóa và cải cách thể chế văn hóa. Việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống thị trường văn hóa, thành lập hệ thống công nghiệp văn
hóa hợp lý sẽ phá bỏ sự nhũng nhiễu, cát cứ hành chính và độc quyền nghề
nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng, vừa chú ý đến sản
xuất văn hóa đại chúng, vừa chú ý thích đáng đến văn hóa tinh hoa.
5 - Thiết lập cơ chế văn hóa thích
ứng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Dù thể chế văn hóa có tầm quan
trọng, thậm chí có ý nghĩa quyết định đối với phát triển văn hóa nhưng điều
đó không đồng nghĩa với việc cải cách thể chế văn hóa có thể giải quyết các
vấn đề đang tồn tại trong phát triển sự nghiệp văn hóa. Bởi lẽ, văn hóa là
một hệ thống phức tạp, cải cách thể chế văn hóa phải phối hợp nhịp nhàng với
cải cách cơ chế thì việc cải cách ấy mới đạt hiệu quả tối ưu. Vì vậy, trong
thực tế, phải lấy cải cách chiều sâu làm động lực, thông qua cơ chế văn hóa
hợp lý tạo môi trường có lợi cho phát triển sự nghiệp văn hóa.
- Thiết lập thể chế quản lý hiệu
quả cao
Trước hết, phải nói đến vai trò
điều hành và quản lý vĩ mô của nhà nước đối với văn hóa. Khi xã hội thay đổi,
vai trò và chức năng nhà nước cũng có những biến đổi tương ứng (về tính chất,
nội dung, phương hướng và biện pháp thực thi). Trong thể chế kinh tế kế
hoạch, nhà nước có vai trò toàn năng, độc quyền chỉ đạo văn hóa, quản lý theo
kiểu tập trung quyền lực cao độ. Trong thể chế kinh tế thị trường, về cơ bản,
nhà nước vẫn điều hành, quản lý văn hóa nhưng không bao biện tất cả mà chủ
yếu cung cấp tài chính hoặc đầu tư cho những công trình văn hóa công ích hoặc
đảm nhiệm những việc mà thị trường khó lòng đáp ứng được. Công việc chính của
nhà nước, của chính phủ là quản lý xã hội, trong đó, văn hóa chỉ là một lĩnh
vực. Nhà nước chủ yếu đóng vai người hoạch định mục tiêu thành phần xã hội,
nhà đầu tư nguồn vốn phát triển xã hội, người duy nhất bảo vệ ổn định và trật
tự xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn, không phải không có những lúc nhà nước
nhầm "vị trí", can thiệp quá sâu và cứng nhắc, làm chậm nhịp độ
phát triển văn hóa. Để thích ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây dựng thể chế quản lý văn hóa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, ngành nghề tự chủ, đơn vị doanh nghiệp sự nghiệp
vận hành theo pháp luật. Đây chính là phương hướng cải cách thể chế văn hóa
thời kỳ mới. Chức năng của Chính phủ về lĩnh vực văn hóa cũng phải có những
thay đổi quan trọng: từ làm văn hóa chuyển sang quản văn hóa, từ quản vi mô
sang quản vĩ mô, từ quản lý trực tiếp chuyển sang quản lý gián tiếp, từ quản lý
đơn vị trực thuộc chuyển sang quản lý xã hội.
Thứ nhất, Nhà nước cần mạnh dạn
giao quyền cho các cấp quản lý văn hóa, giao quyền tự chủ cho các ngành cụ
thể, phân công trách nhiệm cụ thể, có chế độ giám sát việc sử dụng tài sản
văn hóa nhà nước và yêu cầu các đơn vị văn hóa phải chấp hành pháp luật, tuân
theo quy luật kinh tế thị trường. Nhà nước không trực tiếp truyền đạt kế
hoạch sản xuất sản phẩm văn hóa mà yêu cầu các đơn vị văn hóa phải căn cứ vào
yêu cầu thị trường để hạch toán và cân đối chi thu. Nhà nước chỉ đặt hàng
trực tiếp khi cần thiết đối với những công trình văn hóa công cộng, những sản
phẩm văn hóa phục vụ công ích, chẳng hạn như những công trình văn hóa phục vụ
Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội sắp tới.
Thứ hai, sự quản lý của Nhà nước
phải được quy phạm hóa, phải đúng pháp luật. Những vấn đề nào mà cơ chế thị
trường có khả năng giải quyết tốt thì Nhà nước không cần phải can dự vào. Chỉ
những vấn đề cơ chế thị trường không giải quyết được thì Nhà nước mới tham
gia và sự tham gia này phải công khai, dân chủ, phải phù hợp với yêu cầu kinh
tế thị trường và văn minh tinh thần hiện đại.
Thứ ba, chức năng quản lý Nhà nước
phải thay đổi về chế độ xét duyệt hành chính, coi chức năng chủ yếu là phục
vụ sự nghiệp văn hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể sáng tạo văn
hóa, không trực tiếp can dự vào hoạt động văn hóa vi mô và doanh nghiệp. Phải
đặt trọng tâm quản lý là quản lý xã hội và giám sát thị trường, thực hiện tốt
việc quản định hướng, quản nguyên tắc, quy hoạch, trật tự, cơ chế, chất
lượng...
Thứ tư, đào tạo và phát triển hiệp
hội ngành nghề văn hóa và tổ chức môi giới văn hóa có tính chuyên nghiệp cao.
Đây là điều chúng ta đang rất thiếu và rất yếu, nhất là khi Việt Nam đã gia
nhập WTO. Một mặt, chúng ta phải tăng cường xây dựng hiệp hội ngành nghề,
giao chức năng và quyền hạn cụ thể để hiệp hội ngành nghề có tư cách pháp
nhân, trở thành tổ chức quản lý ngành nghề hợp pháp, có vai trò cầu nối giữa
chính phủ với doanh nghiệp. Mặc khác, khuyến khích phát triển các loại tổ
chức môi giới văn hóa, lập những tổ chức môi giới văn hóa và tổ chức đại lý
như công ty môi giới văn hóa tổng hợp, công ty môi giới trình diễn, công ty
đấu giá nghệ thuật, công ty giới thiệu tài năng trẻ, hình thành cơ chế chính
phủ giám sát chỉ đạo, hiệp hội ngành nghề giám sát quản lý, tổ chức môi giới
tự xây dựng quy chế hoạt động tự chủ... Đây là những vấn đề cần được chú ý
đúng mức để tạo nên sự chuyển biến trong chức năng quản lý và định hướng văn
hóa của Nhà nước trong thời đại ngày nay.
- Xây dựng cơ chế phát triển mới
Văn hóa có quy luật phát triển tự
thân, có cơ chế phát triển độc đáo phù hợp với tính đặc thù của nó. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa kinh tế và văn hóa, để phát triển văn hóa dân tộc, chúng ta
phải xây dựng cơ chế phát triển văn hóa mới.
Một là, văn hóa phải đi vào cơ chế
thị trường có tính cạnh tranh. Hiện nay trở ngại lớn nhất là cơ chế văn hóa
cũ không còn khả năng thích ứng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Để phát triển sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa, điều
quan trọng nhất trong cải cách thể chế văn hóa là phải làm cho văn hóa hướng
ra thị trường. Một khi giải quyết tốt vấn đề này, các vấn đề khác sẽ có thể
giải quyết dễ dàng. Vấn đề đặt ra là hướng ra thị trường theo cách nào là hợp
lý nhất. Để trả lời câu hỏi này, trước hết phải quán triệt tư tưởng: mọi lĩnh
vực văn hóa đều có thể tham gia thị trường. Tính có hiệu quả của cơ chế thị
trường là cơ sở để xác lập mối quan hệ nhà nước - thị trường - doanh nghiệp.
Cơ chế cạnh tranh thị trường không những là cơ sở để bố trí tài nguyên công
nghiệp văn hóa mà còn là cơ sở để xây dựng đơn vị sự nghiệp văn hóa, văn hóa
công cộng cùng ngành nghề hữu quan khác. Đối với đơn vị sự nghiệp văn hóa,
vấn đề đáng lo ngại nhất hiện nay là thiếu sức sống vì những đơn vị này chủ
yếu hoạt động bằng nguồn tài chính hạn chế, kinh phí eo hẹp. Do đó, để hướng
ra thị trường, có thể áp dụng nhiều phương thức, chẳng hạn kinh doanh -
chuyển nhượng; xây dựng - cho thuê; xây dựng - chuyển nhượng - kinh doanh...
nhằm nâng cao hiệu suất hoạt động của các hạng mục văn hóa, hạ thấp giá
thành. Cũng cần phải nhận thức rõ hơn cái gọi là thị trường hóa văn hóa. Đặc
trưng của một thị trường tốt đẹp là có quy mô lớn, đông đảo người tham gia,
cạnh tranh công bằng, thông tin minh bạch, không có sự lũng đoạn... Quá trình
thị trường hóa chính là quá trình sáng tạo môi trường cạnh tranh, thông qua
cạnh tranh để thúc đẩy sự sáng tạo của hoạt động văn hóa. Cần khuyến khích
thành lập các loại quỹ công nghiệp văn hóa, các công ty đầu tư văn hóa, đa
dạng hóa chủ thể đầu tư nhằm tạo nên sự phát triển văn hóa từ nhiều nguồn lực
khác nhau. Đưa văn hóa vào thị trường tự do, thông qua sự năng động sáng tạo
các chủ thể sản xuất và kinh doanh văn hóa, sự giúp đỡ của chính sách hợp lý
sẽ làm cho văn hóa có khả năng phát triển mau chóng.
Hai là, tìm cơ chế thực hiện hiệu
quả xã hội của các ngành nghề văn hóa. Hiệu quả kinh tế là mục đích chính của
doanh nghiệp, còn hiệu quả xã hội là nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước. Trước đây
và ngay cả hiện nay, sự quản lý và tham gia trực tiếp vào kinh doanh văn hóa
của Nhà nước nhiều khi không đạt hiệu quả xã hội cao (tuy cũng có lúc, phương
thức này phát huy được tác dụng tích cực). Nhưng trong điều kiện kinh tế thị
trường, việc Nhà nước tham gia quá sâu vào quản lý và kinh doanh văn hóa làm
tiêu chí đánh giá hiệu quả của các doanh nghiệp thiếu tính thống nhất, các
doanh nghiệp thiếu động lực sáng tạo, giá thành sản xuất bị đẩy lên cao, tốc
độ phát triển chậm lại. Vì thế, để bảo đảm hiệu quả xã hội cao của sản phẩm
văn hóa, phương thức quản lý, giám sát của Nhà nước cần theo cách thức gián
tiếp, mang tầm vĩ mô.
Ba là, kiện toàn cơ chế mậu dịch
văn hóa đối ngoại. Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong chiến lược quảng bá
văn hóa Việt Nam ra nước ngoài và tiếp nhận các sản phẩm văn hóa nước ngoài
vào Việt Nam. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã phát đi một thông điệp
quan trọng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên cơ sở hợp tác hữu
nghị, cùng có lợi. Tuy nhiên, cơ chế mậu dịch đối ngoại của chúng ta chưa
hoàn thiện và còn nhiều lúng túng. Điều này xuất phát từ thực tế: chúng ta
vừa rời khỏi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp để bước vào nền kinh tế
thị trường, các doanh nghiệp và cơ sở văn hóa của chúng ta nhỏ và manh mún,
thông tin kinh tế và văn hóa chậm, các doanh nghiệp văn hóa chưa có tầm nhìn
dài hơn, thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp văn hóa để tạo sự liên thông
thị trường rộng lớn... Để phát triển văn hóa và trao đổi văn hóa với thế giới
một cách bình đẳng, chúng ta phải coi kiện toàn cơ chế văn hóa đối ngoại là
một nhiệm vụ cấp thiết vì bước vào “sân chơi” toàn cầu hóa, nếu không nhanh
chóng thay đổi, chúng ta sẽ tụt hậu và luôn rơi vào tình trạng nhập siêu văn
hóa.
- Tạo dựng cơ chế đầu tư đa phương
Phát triển sự nghiệp văn hóa và
công nghiệp văn hóa đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn. Làm thế nào để huy động vốn
một cách hiệu quả là câu hỏi cần được trả lời. Thực tiễn phát triển văn hóa
hiện nay ở nước ta có một số tồn tại trong huy động và lưu thông vốn như sau:
tiến trình cải cách thể chế đầu tư lưu thông vốn ở nước ta còn lạc hậu, cơ
chế đầu tư chuyển biến chậm, hiệu quả đầu tư kém; các doanh nghiệp văn hóa
nhà nước thường bị động, trông chờ vào sự chỉ đạo của Chính phủ, chủ yếu dựa
vào ngân sách nhà nước mà không quyết liệt đi tìm các nguồn vốn khác; việc
cấp phép đầu tư còn nhiều trở ngại, chẳng hạn các tổ chức phi Chính phủ và tư
nhân muốn bỏ vốn để kinh doanh văn hóa không phải lúc nào cũng được tạo điều
kiện thuận lợi; bản thân các doanh nghiệp văn hóa chưa chủ động trong việc sử
dụng vốn và lưu thông vốn để tiến hành điều chỉnh kết cấu và mở rộng quy mô
sản xuất nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh cho đơn vị mình. Vì thế, một yêu
cầu cấp thiết là phải nhanh chóng cải cách chế độ đầu tư lưu thông vốn, mở
rộng kênh đầu tư, tạo động lực cho phát triển công nghiệp văn hóa.
Thứ nhất, cải cách cơ chế đầu tư
của Chính phủ đối với sự nghiệp văn hóa, từ lấy việc "nuôi người"
là chính chuyển sang "nuôi sự nghiệp là chính"; từ "nuôi đơn
vị" là chính chuyển sang "nuôi hạng mục" là chính. Chính phủ
phải đầu tư thích đáng cho các ngành nghề văn hóa có tính công ích, phi doanh
lợi; các ngành nghề, đơn vị và cơ sở hạ tầng liên quan đến an ninh và bản sắc
văn hóa quốc gia như báo chí xuất bản, phát thanh - truyền hình, các đoàn
nghệ thuật truyền thống... Cần cải cách phương hướng đầu tư và phương thức
đầu tư vốn cho thích hợp. Đối với đơn vị sự nghiệp văn hóa công ích, Nhà nước
tiếp tục bảo đảm về kinh phí, mở rộng mức độ đầu tư, đồng thời khuyến khích
những đơn vị ấy tăng cường sức sống phát triển tự thân. Đối với những đơn vị
sự nghiệp văn hóa có thể tham gia hoạt động kinh doanh, Nhà nước dần dần
ngừng đầu tư, thực hiện chế độ tự chủ kinh doanh, tự chịu lỗ lãi, từng bước
chuyển sang chế độ công ty. Phương thức đầu tư của Chính phủ cần chuyển dần
từ đầu tư chung đối với đơn vị sự nghiệp văn hóa sang đầu tư hạng mục văn hóa
là chính.
Thứ hai, mở rộng chuẩn thị trường,
cho phép nhiều loại nhiều văn hóa cùng phát triển, kể cả văn hóa trò chơi,
giải trí, khuyến khích các nguồn đầu tư khác nhau cùng tham gia thị trường
văn hóa. Ngoại trừ những tổ chức văn hóa là tiếng nói chính thống của Nhà
nước, do Nhà nước trực tiếp quản lý thì về nguyên tắc, các lĩnh vực khác của
công nghiệp văn hóa đều có thể cho phép vốn tư bản xã hội tham gia, hạn chế
đầu tư vốn của nước ngoài về văn hóa. Phải nắm vững quy luật thị trường, nắm
vững pháp luật, có chế độ kiểm soát hợp lý đối với các hành vi đầu tư để thị
trường vốn tư bản công nghiệp văn hóa nước ta được vận hành một cách lành
mạnh, hiệu quả.
Thứ ba, mở rộng tỷ lệ góp vốn trực
tiếp, mở rộng mức độ nâng đỡ của thị trường vốn tư bản đối với sự phát triển
công nghiệp văn hóa. Những năm gần đây, ở nước ta có khá nhiều doanh nghiệp
văn hóa thông qua chế độ cổ phần thực hiện kinh doanh nhờ huy động vốn tư bản
trong nước. Tuy nhiên, quy mô vốn đầu tư vào các xí nghiệp văn hóa này còn
nhỏ, kết cấu của doanh nghiệp chưa thật hợp lý, trong khi đó, nhiều doanh
nghiệp lớn của Nhà nước vẫn chưa thực sự năng động trong sử dụng vốn và chưa
hiệu quả trong kinh doanh. Vì vậy, phải có kế hoạch và những bước đi cụ thể
để sắp xếp, bố trí hợp lý, lấy doanh nghiệp văn hóa quy mô lớn của Nhà nước
và kinh tế hỗn hợp có vốn tư bản nhà nước làm chủ thể, thông qua cải tạo và
thực hiện chế độ cổ phần, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, chuyển nhượng...
đồng thời tích cực nâng đỡ các loại doanh nghiệp văn hóa vừa và nhỏ để kích
thích phát triển.
Thứ tư, nhanh chóng thành lập quỹ
công nghiệp văn hóa và quỹ đầu tư sự nghiệp, hướng dẫn chính xác xu hướng đầu
tư của doanh nghiệp văn hóa. Hằng năm, Chính phủ trích ra một lượng tài chính
nhất định để lập quỹ tuyên truyền phát triển sự nghiệp văn hóa, đồng thời huy
động các nguồn vốn khác để xây dựng quỹ, tạo điều kiện cho các hoạt động phát
triển văn hóa, nhất là văn hóa công cộng.
Thứ năm, tăng cường sự giúp đỡ của
ngân hàng đối với công nghiệp văn hóa. Do tài sản cố định của doanh nghiệp
văn hóa không nhiều nên việc vay tín dụng ngân hàng không phải lúc nào cũng
dễ dàng vì tài sản thế chấp của các doanh nghiệp này không đủ so với quy định
của ngân hàng. Bởi thế, cần có những điều chỉnh hợp lý về chế độ cho vay và
kiểm soát rủi ro trong quá trình cung cấp tín dụng cho các hoạt động văn hóa.
Bản thân các đơn vị kinh doanh văn hóa cũng phải tránh những rủi ro trong quá
trình kinh doanh, hoàn thành hợp đồng tài chính đúng theo quy định của pháp
luật.
Thứ sáu, khuyến khích các tổ chức,
cá nhân trong và ngoài nước quyên góp tiền xây dựng các hạng mục văn hóa công
ích phi doanh lợi. Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn phát triển văn hóa thời
gian qua ở nước ta cho thấy, rất nhiều thân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, các
nhà hảo tâm đã tự nguyện quyên góp, hiến tặng, xây dựng nhiều công trình văn
hóa có ý nghĩa. Đây cũng cần được coi là một loại văn hóa quan trọng mà chúng
ta cần huy động.
Có thể nói, đa dạng hóa các loại
hình đầu tư, tìm cách huy động nhiều nguồn vốn khác nhau để phát triển văn
hóa, làm cho văn hóa thực sự là sự nghiệp của toàn dân là một chủ trương hoàn
toàn đúng đắn trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
|
Comments[ 0 ]
Post a Comment