I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN
CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
Trong một bối cảnh thế
giới đặc biệt năm 1990 kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội
đồng UNESCO đã tôn vinh Chủ tịch HCM là Anh hùng giải
phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất với nội dung: “Chủ tịch HCM
là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả dân tộc, đã cống hiến
trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu
tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
Lịch sử Việt Nam có nhiều
anh hùng giải phóng dân tộc, nhưng không phải ai cũng được tôn vinh là nhà văn
hóa kiệt xuất. HCM
được thế giới thừa nhận là Nhà văn hoá kiệt xuất bằng cả một sự nghiệp VH
đồ sộ mà Người đã cống hiến cho dân tộc và nhân loại:
Trước hết, Chủ tịch HCM là người
khởi xướng phong trào đấu tranh chống CNTD, CNĐQ, giải phóng các dân tộc thuộc
địa, giành lại độc lập tự do.
Thứ hai, Người đã sớm
thấy vai trò và sức mạnh của VH, sớm đưa VH vào chiến lược phát triển của đất
nước.
Thứ ba, HCM là người đầu
tiên đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào VN, lấy đó làm thế giới quan và phương pháp
luận cho việc xây dựng nền văn hóa mới VN.
Thứ tư, Bản thân
Người là một nhà hoạt động và sáng tạo văn hóa lớn.
Thứ năm, Người còn là mẫu mực của tinh thần
khoan dung VH.
Thứ sáu, HCM là nhà VH kiệt xuất vì Người
còn là hiện thân rực rỡ của VH hòa bình, của đường lối ngoại giao hòa bình,
luôn luôn chủ trương giải quyết mọi tranh chấp, xung đột bằng thương lượng, đối
thoại với thái độ hiểu biết và nhân nhượng lẫn nhau.
Như đồng chí Phạm Văn
Đồng khẳng định: “TTHCM là một kho tàng đầy của báu, là di sản chứa đựng bao
giá trị, giá trị đó, nói cho cùng, là giá trị VH mà chúng ta khai thác chưa
được bao nhiêu”.
1. Khái niệm văn
hóa theo tư tưởng
Hồ Chí Minh
a. Quan niệm của Hồ
Chí Minh về văn hoá
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng
ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
b. Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
Cùng
với việc đưa ra định nghĩa về VH, HCM còn đưa ra Năm điểm lớn
định hướng cho việc xây dựng nền VH dân tộc
“1.
Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
2.
Xây dựng luân lý: biết hi sinh mình, làm lợi cho quần chúng
3.
Xây dựng XH: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong XH
4.
Xây dựng chính trị: dân quyền
2. Quan điểm của Hồ
Chí Minh về các vấn đề chung của văn
hóa
a. Quan điểm về vị trí và vai trò của văn
hóa trong đời sống xã hội
- Văn hóa là
đời sống tinh thần, thuộc
kiến trúc thượng tầng
+ Trong quan hệ với KT:
Xây dựng KT để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển VH
+ Trong quan hệ với chính
trị, xã hội: Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải
phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho VN phát triển.
- VH không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị,
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế
- Văn hoá vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng
b. Quan điểm về tính
chất của nền văn hóa
- Tính dân tộc của văn
hóa là sự thể hiện của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần độc lập tự cường của dân
tộc trong lĩnh vực văn hóa.
- Tính khoa học của văn
hóa đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái lại khoa học, phản tiến bộ;
truyền bá tư tưởng triết học mác xít, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thần
bí, mê tín, dị đoan
- Tính đại chúng của văn
hóa là vấn đề thuộc về tính nhân dân về đối tượng phục vụ của văn hóa – nghệ
thuật
c. Quan điểm về chức năng của văn hóa
- VH phải khẳng định, nêu
cao lý tưởng độc lập, tự chủ góp phần nâng cao tư
tưởng và những tình
cảm cao đẹp của con người
- Mở rộng hiểu
biết,
nâng cao dân trí
- Bồi dưỡng những
phẩm
chất, phong cách tốt
đẹp, lành mạnh để không ngừng hoàn
thiện bản thân
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa
a. Văn
hóa giáo dục
- Mục tiêu của
văn hóa giáo dục: Thực hiên
ba chức năng của VH bằng giáo dục bằng dạy và học:
1. Bồi dưỡng tư tưởng và tình
cảm cách mạng
2. Nâng cao dân trí
3. Xây dựng những phẩm chất
tốt đẹp cho con người
- Nội dung giáo dục toàn diện
- Phương châm, phương pháp giáo dục: Giáo dục gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, lý luận
phải liên hệ với thực tế, học tập kết hợp với lao động, Học ở mọi nơi, mọi lúc,
mọi người, học suốt đời, coi trọng tự học, tự đào tạo, Phải cải cách giáo dục: để xây dụng hệ thống
trường, lớp hợp lý, khoa học phù hợp với bước tiến của nhân loại.
b. Văn
hóa văn nghệ
- Văn hóa - văn nghệ là một mặt trận,
nghệ sĩ là chiến sĩ,
tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng.
- Phải có những tác phẩm văn nghệ
xứng đáng với thời đại mới
của đất nước và DT
c. Văn hóa đời sống
Tháng 1/1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào xây dựng Đời sống mới.
4/1946, ký sắc
lệnh thành lập Ủy ban Trung ương vận động
Đời sống mới
3/1947, Người viết cuốn sách Đời sống mới để hướng dẫn việc xây dựng
đời sống mới trong các tầng lớp nhân dân, trong toàn xã hội.
Như vậy là việc
xây dựng đời sống mới đã được Hồ Chí Minh nêu ra từ rất sớm, khi vấn đề lối
sống, nếp sống, phong cách, chất lượng sống…hầu như chưa được bàn đến một cách
rộng rãi ở các nước. Cuộc vận động đã có ý nghĩa quan trọng trong việc thực
hiện chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc tạo nên những biến chuyển to lớn
trong đời sống VH của nhân dân ta
Khái niệm đời
sống mới được HCM nêu bao gồm: Đạo đức
mới, lối sống mới và nếp sống mới, giữa chúng có quan hệ mật thiết với
nhau.
+ Đạo đức mới: là vấn đề chủ yếu “Thực hành đời sống mới là cần,
kiệm, liêm, chính” “nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ
bại, biến thành sâu mọt của dân” “nêu cao và thực hành cần, kiệm, liêm, chính
tức là nhen lửa cho đời sống mới ”
+ Lối sống mới: Trước hết là lối sống có lý tưởng, có đạo đức, là lối
sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoá truyền thống với tinh hoa văn hoá
nhân loại.
+ Nếp sống mới: Đó là nếp sống văn minh, kế thừa truyền thống dân tộc, thuần phong mĩ tục.
Bỏ những cái xấu, lạc hậu, không cờ bạc, trộm cắp, say sưa rượu chè. Tạo nếp
sống mới trong cưới hỏi, ma chay.
Tư
tưởng văn hóa Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc hiện nay?
1. Thực trạng đời sống văn hóa hôm nay - thành tựu và hạn chế
a. Thành tựu
- Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát triển sáng tạo, đang ngày càng tỏ rõ
giá trị bền vững, trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
xã hội, tạo sự thống nhất về tư tưởng, đồng thuận xã hội.
- Nhiều nét mới có giá trị
trong văn hóa và đạo đức được hình thnahf và củng cố; tính năng động của kinh
tế, tính tích cực của nhân dân được khơi dậy thay cho tâm lý thụ động của cơ
chế cũ, không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội được tăng lên. Những nét mới
trong chuẩn mực nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đang từng bước được hình thành
- Đời sống văn hóa – nghệ
thuật, báo chí, xuất bản, phát thanh truyền hình phong phú và đa dạng. Đã xuất
hiện nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị về đề tài cách mạng, kháng
chiến và công cuộc đổi mới
b. Nhược điểm
- Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu đã gây ra trạng thái dao động, hoài nghi, giảm sút
niềm tin ở một số người, kể cả không ít cán bộ đảng viên
- Sự suy thoái về đạo đức – lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ có chức, quyền: tham nhũng, quan liêu,
cửa quyền, sách nhiễu….đang gây bất bình trong nhân dân, làm tổn thương đến uy
tín của Đảng và nhà nước, đến sự an nguy của xã hội.
- Tệ nạn xã hội phát triển: ma
túy, buôn lậu, mại dâm, mê tín dị đoan đang gây hại đến thuần phong mỹ tục, chà
đạp lên đạo nghĩa và các giá trị văn hóa truyền thống.
- Đời sống văn hóa còn nhiều
bất cập: thiếu những tác phẩm có giá trị cao về mặt tư tưởng, nghệ thuật, có
hiện tượng sa vào chủ nghĩa hình thức, tách rời văn nghệ với nhiệm vụ chính trị
của đời sống, chạy theo xu hướng thương mại hóa và những thị hiếu thấp kém. Đời
sống văn hóa của đồng bào vùng sâu, vùng xa còn nghèo nàn
Thực trạng đó có nhiều nguyên
nhân chủ quan và khách quan trong đó những di sản vô giá của Hồ Chí Minh về văn
hóa chưa được quan tâm và khai thác đúng mức. Để giải quyết, phải có một hệ
thống đồng bộ cả về cơ chế, chính sách và luật pháp… trong đó có vấn đề học
tập, quán triệt và vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
2. Quán triệt tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp xây dựng văn hóa hiện nay là một yêu cầu cấp thiết, một vấn đề có ý
nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn
Vận dụng tư tưởng văn hóa Hồ
Chí Minh để giải quyết một số vấn đề lớn sau đây:
a. Xây dựng văn
hóa phải bắt đầu từ mỗi con người với tư cách là chủ thể của văn hóa
Văn hóa Việt Nam trải qua mấy
ngàn năm xây dựng và phát triển đã hình thành được những giá trị bất biến: yêu
nước, nhân ái, khoan dung… Tuy nhiên văn hóa cổ truyền Việt Nam chủ yếu là sản
phẩm của nền văn minh nông nghiệp, lại trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ
phong kiến, áp bức nên con người Việt Nam vẫn còn những nhược điểm và bất cập
khi đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngày nay, đi vào cơ chế thị
trường, một nhược điểm mới đang nổi lên rất đáng lo ngại, xa lạ với tư tưởng Hồ
Chí Minh đó là chủ nghĩa thực dụng, xu hướng chạy theo đồng tiền, lối sống vị
kỷ, lòng ham muốn về vật chất đang nổi lên mạnh mẽ. Đó chính là nguyên nhân đẻ
ra các hiện tượng phản văn hóa: trộm cắp, tham nhũng, lừa đảo…
Để giải quyết vấn đề này, chúng
ta phải trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh: xây dựng văn hóa trước hết là xây dựng
con người, đó phải là con người được bồi dưỡng, giáo dục trên các mặt
- Về tư tưởng: Nắm vững CNML, TTHCM,
biết vận dụng thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa đó vào
hoàn cảnh thực tiễn của đất nước
- Về đạo đức: Có lòng yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội, có hoài bão vì nước, vì dân rửa cái nhục đói nghèo, biết
quý trọng đồng tiền nhưng không vì đồng tiền mà đánh mất nhân phẩm, làm trái
với lương tâm, đạo đức.
- Về lối sống: Có ý thức giản
dị, trong sáng, cần kiệm
- Về tri thức: Có phương pháp
và thói quen tự học, tự nghiên cứu
Chỉ với những con người với
những phẩm chất như vậy chúng ta mới có thể xây dựng được một nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đủ sức đưa nước nhà hòa nhập được vào trào lưu
phát triển mạnh mẽ của loài người trong thời đại ngày nay
b. Giữ vững và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập với thế
giới
Trước xu thế khu vực hóa, toàn
cầu hóa của thế giới hiện nay, không một quốc gia, dân tộc nào có thể phát
triển trong sự tách biệt với thế giới. Sự giao lưu, hội nhập giữa các quốc gia
đang diễn ra trên mọi lĩnh vực nhằm chuyển hóa các yếu tố ngoại lực thành nội
lực để phát triển, trong đó có văn hóa, Việc mở rộng các quan hệ giao lưu, hợp
tác về văn hóa đang là một thời cơ để văn hóa Việt Nam tiếp nhận những thành
tựu mới của văn minh nhân loại, làm phong phú thêm cho văn hóa dân tộc mình,
rút ngắn khoảng cách của ta với thế giới.
Tuy nhiên quá trình đó không
chỉ diễn ra theo chiều thuận mà có cả chiều nghịch. Nếu không có một bản lĩnh,
một chiến lược văn hóa đúng đắn thì việc giao lưu đó sẽ dẫn đến nguy cơ sùng ngoại, đánh mất bản sắc văn hóa
dân tộc.
Để không đánh mát cái cốt lõi, bản sắc của
mình mà vẫn chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh nhân loại, ta phải trở về
với tư tưởng Hồ Chí Minh, phải lấy bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng, làm
bản lĩnh và bộ lọc cho mỗi người để không bị ảnh hưởng bởi những văn minh phế
thải của phương Tây mà ngay cả những nhà văn hóa chân chính ở đó đã lên án từ
lâu.
Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn
liền với nâng cao dân trí. Chỉ có con người được trang bị bằng những kiến thức
khoa học, hiện đại mới có thể chọn lọc được những tinh hoa văn hóa nhân loại để
tiếp thu và học tập, bài trừ những văn hóa không phù hợp.
Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc
cần phải cân nhắc đầy đủ trong mối quan hệ giữa văn hóa với phát triển, không
để cho lợi ích kinh tế làm ảnh hưởng tới lợi ích lâu dài của việc duy trì và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
c. Cảnh giác,
ngăn chặn âm mưu lợi dụng giao lưu văn hóa để thực hiện “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch.
Các thế lực thù địch của CNXH
đang lợi dụng chiêu bài dân chủ hóa về chính trị, tự do hóa về kinh tế để thổi
những luồng gió độc, phủ nhận quá khứ, hạ bệ thần tượng, gieo rắc hoài nghi về
sự lãnh đạo của Đảng, gây mất niềm tin vào CNXH.
Bên cạnh đó, thông qua cái gọi
là văn hóa đại chúng, văn hóa nghe – nhìn làm cho thế hệ trẻ ngày càng xa rời
các giá trị truyền thống dân tộc, chạy theo các điều phản giá trị để từ diễn biến văn hóa dẫn đến
diễn biến chính trị
Phương pháp bảo vệ văn hóa của
Hồ Chí Minh là xây dựng và bồi dưỡng những điển hình tích cực về văn hóa, từ
phong trào người tốt, việc tốt, xây dựng gia đinh văn hóa mới đến xây dựng
thuần phong mỹ tục cho toàn xã hội, đó là con đường vững chắc và hiệu quả để
tạo ra sức đề kháng, bảo vệ văn hóa dân tộc, chống lại sự thẩm thấu độc hại của
văn hóa ngoại lai.
1. Nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức
Khái niệm đạo đức:
- Theo Từ điển Tiếng Việt: đạo đức là phép tắc
về quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với tập thể và cá nhân
với xã hội.
- Theo “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, (Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương, Nxb CTQG, H.2007), “đạo
đức hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm những
nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng
chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với con người và toàn
xã hội”.
Đạo đức xã hội
bao gồm: ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức.
+ Ý thức đạo đức: là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu,
lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh giá,
điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân.
+ Hành vi đạo đức: là sự biểu hiện trong ứng xử thực tiễn của ý thức đạo
đức mà con người đã nhận thức và lựa chọn. Đó là sự ứng xử trong các mối quan
hệ giữa cá nhân với cá nhân, với tự nhiên, đồ vật, với xã hội và với chính
mình.
Đối với mỗi cá
nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu
bên trong đồng thời chịu tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những
người xung quanh.
+ Quan hệ đạo đức: là hệ thống những mối quan hệ giữa người với người
trong xã hội xét về mặt đạo đức. Quan hệ đạo đức thể hiện dưới các phạm trù bổn
phận, lương tâm, nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi…giữa cá nhân với cá nhân, cá
nhân với tập thể, cộng đồng và toàn xã hội.
→ Đạo đức là một phạm trù
lịch sử, kết quả của quá trình phát triển của xã hội loài người. Đạo đức thuộc
kiến trúc thượng tầng. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang tính giai cấp.
Vấn đề đạo đức mà Hồ Chí
Minh quan tâm và đề cao không chỉ là đạo đức theo nghĩa thông thường mà gắn nhu
cầu con người và xã hội nói chung. Đạo đức Hồ Chí Minh đề cập đến chính là phạm
trù đạo đức cách mạng. Một mặt nó tiếp thu những yếu tố tích cực đạo đức truyền
thống, đồng thời tiếp thu phát triển tinh hoa đạo đức nhân loại, đặc biệt là nội
dung tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin
a. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
- Đạo đức là
cái gốc của người cách mạng
- Đạo đức là tiêu chuẩn hàng đầu của
người lãnh đạo trong điều kiện ĐCQ
- Đạo đức là nhân tố
tạo nên sức hấp dẫn
của CNXH và chủ nghĩa cộng sản
b. Quan điểm
về những chuẩn mực đạo đức
cách mạng
- Trung
với nước, hiếu với dân.
Trung và hiếu là những
khái niệm cũ trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, phản
ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm chất đạo đức bao trùm nhất đó là bổn
phận, trách nhiệm của thần dân đối với vua, con cái đối với cha mẹ: “Trung với
vua, hiếu với cha mẹ”.
+ Trung với nước là:
Tuyệt đối trung
thành với sự nghiệp XD và bảo vệ đất nước, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc,
của nhân dân, của cách mạng lên trên hết; Phấn đấu thực hiện mục tiêu CM.
+ Hiếu với dân
là:
Yêu dân, kính
trọng dân, lấy dân làm gốc; Đề cao tinh thần phục vụ nhân dân; Luôn quan tâm
chăm lo cho đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; Tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của dân, nâng cao dân trí để dân biết và sử dụng quyền làm chủ
của mình.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư.
+ Cần: tức là lao
động cần cù, siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, sáng tạo, năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, ỷ lại.
+ Kiệm: là tiết
kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của dân, của nước, của mình, không xa xỉ,
không hoang phí, phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù…
+ Liêm: trong
sạch, không tham lam… Không ham người tâng bốc mình, quang minh chính đại,
không hủ hóa
+ Chính: nghĩa
là không tà, thẳng thắn, đứng đắn.
+ Chí công vô tư:
là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì tổ quốc, vì đồng bào, đặt
lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
vào năm 1949,
với bút danh Chiến Thắng, dưới đầu đề Cần
Kiệm Liêm Chính, HCM viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”.
- Thương yêu
con người, sống có tình nghĩa.
- Có tinh thần
quốc tế trong sáng.
c. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Để
xây dựng một nền đạo đức mới, HCM đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định
hướng cho sự lãnh đạo của Đảng, cũng như cho việc rèn luyện của mỗi người
- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương
về đạo đức
- Xây đi đôi với chống
+ Xây: là biểu dương,
giáo dục những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới, những tấm gương đạo đức cao
đẹp, trong sáng nảy sinh từ các phong trào cách mạng của quần chúng, qua đó
khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh để mỗi người tự giác trau dồi, rèn luyện.
+ Chống: là phê phán, lên
án, loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức đang thường xuyên diễn ra trong
cuộc sống.
+ Xây phải đi đôi
với chống: Xây phải đi liền với chống, muốn xây thì phải chống, chống là nhằm
mục đích xây.
- Phải tu dưỡng đạo đức
suốt đời
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh
a. Học tập
và làm theo tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh
- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo
đức đối với cá nhân
- Tu dưỡng đạo đức theo
các phẩm chất đạo đức Hồ Chí
Minh
+ Yêu Tổ quốc,
yêu
nhân dân
+ Cần cù, sáng tạo trong học tập
+ Sống nhân nghĩa, có đạo
lý
- Tu dưỡng đạo đức theo
các nguyên tắc đạo đức Hồ Chí Minh
+ Kiên trì
tu dưỡng
đạo đức cách mạng
+ Nói và làm đi đôi với nhau
+ Kết hợp cả xây đựng đạo đức mới với chống các biểu hiện suy thoái về đạo đức
- Học tập và làm theo
tấm gương
đạo đức Hồ
Chí Minh
b.
Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh
- Thực trạng đạo đức lối
sống trong sinh viên hiện nay.
- Phương pháp học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
+ Học trung với nước,
hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người
+ Học Cần kiệm liêm chính
chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi
thường
+ Học đức tin tuyệt đối
vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ
nhân dân, luôn nhân ái, vị tha, khaon dung và nhân hậu với con người
+ Học tấm gương về ý chí
và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để
đạt được mục đích cuộc sống.
- Điều kiện đảm bảo học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh
Mấy vấn đề đạo đức xã hội hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh.
1. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, “làm cán bộ tức là suốt đời làm
đầy tớ trung thành của nhân dân.
Trong đấu tranh cách mạng và
kháng chiến gian khổ, cán bộ ta biết dựa vào dân, được dân nuôi dưỡng, che chở,
đùm bọc, cưu mang nên rất thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Gốc có
vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
Nhưng khi cách mạng đã thắng
lợi rồi, gian khổ đã qua rồi, nhiều người lại quên mất công lao của nhân dân,
chỉ còn thấy công lao của cá nhân mình, tinh thần phục vụ nhân dân đã nhường
chỗ cho những tính toán vị kỷ, không còn là đày tớ dân mà chỉ là những quan
cách mạng, sách nhiễu, ức hiếp, bòn rút của dân, gây cho dân bao khổ sở, oan
trái, tạo thành những điểm nóng, gây mất ổn định xã hội. Họ quên mất rằng mất
lòng dân là sẽ mất tất cả.
2. Phải ra sức chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức vì chủ nghĩa cá
nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ
quan, tham ô, lãng phí…
Chủ nghĩa cá nhân được HCM coi
như kẻ thù nguy hiểm nhất của đạo đức cách mạng, là căn bệnh mẹ đẻ ra nhiều thứ
bệnh tai hại khác, trước hết là ba thứ “giặc nội xâm” tham ô, lãng phí, quan
liêu; là tha hóa về đạo đức, lối sống, cơ hội, nịnh bợ, chạy theo đồng tiền…
Trong cuộc đấu tranh bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc XHCN, HCM đã chỉ ra mối quan hệ giữa đánh thù trong và diệt
giặc ngoài. Kẻ thù bên ngoài không thể nào thắng nổi ta nếu nó không liên kết,
khai thác, sử dụng kẻ thù bên trong là những kẻ thoái hóa, biến chất, những kẻ
có chức quyền…Đây là một cuộc đấu tranh gay go phức tạp.
3. Ít lòng ham muốn về vật chất, phải cố gắng thực hiện cho kỳ được: cần
kiệm liêm chính chí công vô tư.
Kẻ địch thường lung lạc cán bộ
bằng những cám dỗ vật chất, khuyến khích họ chạy theo lối sống thực dụng, tầm
thường. Từ tham muốn vô độ, họ sẽ dễ dàng sa ngã, phạm tội. Vì vậy, một trong
những tư cách của người cách mệnh được HCM nhắc đến đầu tiên là phải ít lòng
ham muốn về vật chất vì nước ta còn nghèo, dân ta còn khổ, không thể đua cề sự
xa xỉ mà chỉ có thể đua về lòng cần kiệm.
Tấm gương của HCM đã cho chúng
ta một bài học sâu sắc: cuộc sống vật chất là hữu hạn, cuộc sống tinh thần mới
là vô hạn. Theo đuổi lý tưởng cao đẹp, người cán bộ đảng viên phải biết sẵn
sàng chấp nhận sự thiệt thòi về vật chất để theo đuổi những giá trị tinh thần
cao đẹp. Nói như vậy cũng không phải cổ vũ cho lối sống khổ hạnh. Đấu tranh và
hưởng thụ là hai mặt gắn bó thống nhất với nhau. Đấu tranh xóa bỏ áp bức bóc
lột, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, để vươn tới một cuộc sống tốt đẹp, văn minh cho
toàn xã hội, trong đó có gia đình, bản thân.
Nhưng HCM đã dạy hưởng thụ phải
đúng thời, đúng lúc, phải phù hợp vơi skeest quả lao động của mình, với trình
độ phát triển của đất nước và mức sống của nhân dân. Vượt qua phạm vi đó là xâm
và phạm vào tiền bạc và của cải của nhân dân.
III. TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ
XÂY DỰNG
CON NGƯỜI MỚI
1. Quan niệm của Hồ
Chí Minh về con người
- Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người?
Theo Giáo trình Triết học Mác - Lênin của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Con
người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội. Con người là
sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con
người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống
nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể
với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị…quy định
phương diện sinh học của con người. hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình
thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm,
khát vọng, niềm tin, ý chí…Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội
giữa người với người. “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố
hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội”.
a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
-
Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực
và các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân – Thiện –
Mỹ
-
Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và
ác, hay và dở, tốt và xâu, hiền và dữ… bao gồm cả tính người – mặt xã hội và
tính bản năng – mặt sinh học của con người
b. Con người
cụ thể, lịch sử.
Hồ Chí Minh
thường nói đến con người trong phạm vi dân tộc: con lạc, cháu hồng; con rồng,
cháu tiên. Hai chữ đồng bào là khái niệm yêu thương con người, giống nòi.
Dưới ánh sáng
của chủ nghĩa Mác - Lênin và qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh nhận thức về
con người đó mở rộng “biên độ”. Con người mà Hồ Chí Minh nói là nhân dân lao
động bị áp bức, bị bóc lột. Hồ Chí Minh sử dụng khái niệm “người bản xứ bị bóc
lột”, “người mất nước”, “người da đen”, “người cùng khổ”, “người vô sản”…
Trong quan hệ xã
hội Bác chia làm hai giống người: những người làm điều thiện và những người làm
điều ác. Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, khi về nước lónh đạo
nhân dân đấu tranh giành chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh lại dùng khái niệm
“đồng bào”, “quốc dân”… Khi miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xó hội, Người dùng
thêm nhiều khái niệm như “công nhân”, “nông dân”, “lao động trí óc”, “người chủ
xã hội”…
c. Bản chất con người mang tính
xã hội.
- Để sinh tồn, con người
phải lao động sản xuất. Trong quá trình
lao động, sản xuất các mối quan
hệ được xác lập.
- Con người vừa
là chủ thể, vừa là
sản phẩm của lịch
sử,
là tổng
hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược
“trồng người”
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh
về vai trò của con người.
- Con người là vốn quý
nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng
- Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi
trọng, chăm sóc và phát huy nhân tố con người
+ Con
người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng. Cách mạng
nhằm mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, hướng tới giải phóng con
người một cách triệt để nhất, mang lại cho con người sự tự do, bình đẳng, hạnh
phúc…Vì vậy, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì
lợi ích chính đáng của nhân dân.
Dưới ách thống trị, xâm
lược của chủ nghĩa thực dân, con người phải được giải phóng khỏi gông cùm nô lệ
cùng với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau khi giành được độc lập, phải tiếp
tục xóa bỏ sự thống trị, áp bức, bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp
khác; xóa bỏ sự bất công, bất bình đẳng xã hội; xóa bỏ nền tảng kinh tế - xã
hội đẻ ra sự bóc lột giai cấp… để tiếp tục giải phóng con người trong sự nghiệp
giải phóng giai cấp cần lao. Cuối cùng, từng cá nhân phải được giải phóng khỏi áp bức, bất công,
được hạnh phúc, tự do, được phát triển toàn diện, trở thành người làm chủ xã hội.
Đó chính là quá trình thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người
+ Con người là động lực của cách mạng.
Điều đó được thể hiện: con người chính là những người tiến hành sự nghiệp cách
mạng.
Những người giác ngộ lý tưởng cách
mạng, có những phẩm chất, khả năng nhất định sẽ là những người làm cách mạng.
Điều đó chỉ có thể thực hiện khi có một tổ chức lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân.
Đó chính là Đảng cộng sản.
Con người là động lực của cách mạng
được thể hiện như thế nào?
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trông cách mạng, trong khi
khẳng định mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh
phúc cho con người, Hồ Chí Minh cũng đồng thời khẳng định sự nghiệp giải phóng
là do chính bản thân con người thực hiện. Lòng tin của Hồ Chí Minh đối với nhân
dân ta dựa trên sự hiểu bết sâu sắc truyền thống lịch sử của dân tộc và con
người Việt Nam; dựa trên nhận thức về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân.
Từ sự nhận thức sâu sắc ấy, Hồ Chí
Minh đã suốt đời tự mình tiến hành và tổ chức việc tuyên truyền, giáo dục sâu
rộng, thường xuyên, giúp cho con người phát huy bản chất tốt đẹp, khắc phục
khuyết điểm, nhược điểm, không ngừng hoàn thiện, tự nâng cao, xứng đáng là
thành viên của nhân dân vĩ đại và đủ sức hoàn thành các nhiệm vụ mà thực tiễn
giải phóng dân tộc và cách mạng đòi hỏi. Không chỉ khẳng định vai trò của công
nhân, nông dân, Hồ Chí Minh rất coi trọng tầng lớp trí thức. Những nhà trí thức
tiêu biểu của dân tộc, kể cả lớp cũ và lớp mới, đáp ứng lời kêu gọi tham gia
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đều được Người tin cậy, chăm sóc và trao cho
những nhiệm vụ quan trọng. Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc và tin tưởng vững chắc rằng
sức mạnh của nhân dân được thức tỉnh và được tổ chức là vô cùng to lớn. Và để
thức tỉnh nhân dân, tập hợp nhân dân thì cần phải có một tổ chức đủ mạnh, đó
chính là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong khi nhận thức sâu
sắc, đầy đủ vai trò động lực của con người thì phải thấy mối quan hệ biện chứng
giữa con người - mục tiêu và con người - động lực. Càng chăm lo cho con người -
mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ phát huy con người - động lực tốt bấy nhiêu.
Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng
đạt được mục tiêu cách mạng.
b. Quan điểm
của Hồ Chí Minh về chiến lược
“trồng
người”
- Trồng người là yêu cầu
khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng
Sự nghiệp xây dựng con người mới là
một bộ phận của chủ nghĩa nhân văn cách mạng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa nhân văn
giải thoát những lớp người yếu hèn lao khổ, các dân tộc bị chà đạp; giải thoát
chính bằng lực lượng của mình. Vì vậy, “trồng người”, “bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau”, “công việc đối với con người”… là những việc làm rất quan
trọng, rất cần thiết và là việc đầu tiên theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
- Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo
ra những con người xã hội chủ nghĩa, những con người xã hội chủ nghĩa lại là
chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Không phải chờ cho kinh
tế, văn hóa phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, cũng
không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ phải đặt ra
từ đầu và phải được Đảng, Nhà nước, nhân dân, mỗi gia đình và cá nhân đặc biệt
quan tâm trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước hết cần có những
con người xã hội chủ nghĩa, điều đó không có nghĩa là tất cả phải và có thể trở
thành con người xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ, hoàn chỉnh ngay một lúc. Trước
hết cần có những con người tiên tiến, có được những nét tiêu biểu của con người mới xã hội chủ nghĩa, có thể
làm gương cho người khác, từ đó lôi cuốn xã hội đẩy mạnh việc xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa và những con người tiên tiến đó không ngừng hoàn
thiện, nâng cao
- Vì lợi ích trăm năm
phải “trồng người”
Hồ Chí Minh vận
dụng sáng tạo, phát triển quan điểm của Quản Di Ngô thời Xuân Thu: “Thập niên chi kế mạc nhi thụ mộc, bách
niên chi kế mạc nhi thụ nhân”
Hồ Chí Minh quan
niệm: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người”. Con người trong thời đại mới phải có học thức, chiếm lĩnh đỉnh
cao của KHKT. Vì vậy CNXH mới đủ tiềm lực vật chất để chiến thắng CNTB, mới làm
cách mạng thắng lợi.
Bên cạnh đó
“trồng người”, xây dựng con người mới phải được thường xuyên đẩy mạnh trong
suốt tiến trình đi lên CNXH và phải đạt được những kết quả cụ thể qua từng
chặng đường của thời kỳ quá độ. Từ đó thấy được cái tốt để phát huy, vạch rõ
cái chưa tốt để khắc phục. Không được xao nhãng việc trồng người. Bởi vì “một
ngày mà quên giáo hóa, ta lùi về gần thú tính ngay” (Tagore)
+ Nội dung trồng
người, xây dựng con người mới phải toàn diện:
Một là, có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa: có bản lĩnh chính trị vững vàng, có chính kiến. Xây
dựng con người có ý thức làm chủ, tự lực, tự cường, gắn quyền lợi và nghĩa vụ.
Luôn phấn đấu cho độc lập dân tộc và CNXH. Con người có niềm tin và lạc quan
cách mạng.
Hai là, có đạo
đức và lối sống XHCN: đó là mục đích và lối sống cao đẹp, Con người có trí tuệ,
trình độ học vấn cao, ngày càng tiến bộ. Con người có sức khoẻ. Con người có lòng
khoan dung, độ lượng.
Ba là, có tác
phong XHCN: Lao động có kế hoạch, có biện pháp, có quyết tâm, có tổ chức, kỷ
luật, lao động có năng suất, lao động quên mình, không ngại khó, ngại khổ, vì
lợi ích của tập thể, xã hội và của bản thân.
Bốn là, Có năng
lực để làm chủ bản thân, gia đình và công việc mà mình đảm nhiệm để từ đó làm
chủ đất nước. Phải không ngừng nâng cao trình độ bản thân, nắm bắt những thành
tựu của khoa học, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến
Năm là con người
có sức khỏe bao gồm cả thể chất và tinh thần
Hồ Chí Minh coi
trọng việc nâng cao dân trí cho toàn dân tộc. Người hướng mọi hoạt động văn
hoá, giáo dục, tư tưởng vào việc rèn luyện dân tộc ta thành dân tộc cách mạng
và văn minh. Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu : Diệt giặc đói, diệt giặc dốt”. Bác đi
đầu trong việc khai dân trí. Mở các lớp xoá mù chữ, các lớp bình dân học vụ.
Người nói: “một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu”.
- Chiến lược trồng người là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
KẾT LUẬN
- Sáng tạo
lý luận
của Hồ Chí Minh
+ Đề cao vai trò của văn
hoá, gắn văn hoá với phát triển.
Người sớm nhậ thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa và sớm đưa văn hóa vào chiến
lược phát triển của đất nước
+ Xác lập hệ thống quan điểm có giá trị xây dựng nền văn hoá mới
Việt Nam
+ Đề
cao vai trò của đạo đức,
gắn đạo đức với sự phát
triển
tiến bộ của xã hội. Người có những
đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng đạo đức học mác xít. Những đóng góp đã nâng
Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi lạc được thế giới thừa nhận
+ Xác lập
hệ chuẩn giá trị đạo đức cho con người mới Việt
Nam
+ Coi trọng
con người và xây dựng con người
- Ý nghĩa
của việc học tập
+ Thấy rõ những cống hiến kiệt xuất của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực
văn
hoá, đạo đức và xây dựng
con người mới
+ Xác định rõ
phương hướng, biện pháp
học tập
tư
tưởng văn hoá, đạo đức,
làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
+ Nhận thức rõ biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, đặc biệt
là sự quan tâm
đến con người
+ Xác định con đường phấn đấu để trở thành con người mới theo tư
tưởng Hồ chí Minh.
. Hồ Chí Minh: Toàn
tập, t. 5, tr. 631
Comments[ 0 ]
Post a Comment