I. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1. Quan điểm của
Hồ Chí Minh về dân chủ
a. Khái niệm dân chủ.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
- Hồ Chí Minh đã nhiều lần đưa ra và trả lời một cách ngắn gọn nhất
quan điểm của mình về khái niệm dân chủ.
Hồ Chí Minh thường nêu câu hỏi: “Dân chủ là như thế nào?” và Người lại
tự trả lời: “Là dân làm chủ”.
Theo một ý nghĩa khác, Hồ Chí Minh nói: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa
là nước nhà do dân làm chủ”. “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”. Người còn nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân
là chủ”.
Có thể coi quan niệm trên đây là quan niệm chính thức của Hồ Chí Minh về
dân chủ và đó là quan niệm ngắn gọn nhất phản ánh đúng thực chất và nội dung của
quan niệm Hồ Chí Minh về dân chủ.
Người viết: “Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến chính phủ do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
- Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh được biểu hiện qua hai mệnh đề “dân
là chủ” và “dân làm chủ”.
2. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội
a. Nội dung chính trị
của dân chủ
Dân chủ thể hiện ở việc
đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Dân chủ trong xã hội Việt Nam
được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Trong đó, nổi bật lên nội dung chính trị.
- Quan niệm của Hồ Chí
Minh cho thấy rõ sự thể hiện cụ thể nội dung chính trị khi xem dân chủ là một hình
thái Nhà nước, một thiết chế xã hội “nước ta là một nước dân chủ”.
- Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng:
“Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ. Nhân dân bầu ra các
Hội đồng nhân dân. Uỷ ban kháng chiến hành chính địa phương và Quốc hội cùng Chính
phủ Trung ương.
- Nhân dân là ông chủ nắm
chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt cho mình thi hành chính quyền ấy.
Thế là dân chủ.
b. Dân chủ biểu hiện trong phương thức tổ chức xã hội
- Dân chủ biểu hiện trong phương thức tổ chức xã hội là sự khẳng định
ngay chế độ dân chủ của nước ta phải thể hiện “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”,
“quyền hành”, “trách nhiệm, lực lượng” là “của dân”, “đều ở nơi dân”.
- Quan niệm trên cũng chỉ ra phương thức tổ chức, vận hành của xã hội dân
chủ là chế độ đại diện , uỷ quyền, trong đó – chính quyền, đoàn thể đều “do dân
cử ra” và “do dân tổ chức nên”.
c. Dân chủ là sản phẩm của nền văn minh
Quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh
chỉ rõ dân chủ là giá trị của nhân loại, là sản phẩm của nền văn minh, là sản
phẩm của quá trình đấu tranh tự giải phóng của loài người, là sản phẩm tiến hóa
của lịch sử.
- Hồ Chí Minh cũng nêu lên một khái
niệm lý tưởng dân chủ và cho rằng đó là một tiêu chí phấn đấu chung của mọi quốc
gia, dân tộc, của toàn nhân loại.
- Người còn đưa ra khái niệm về dân
chủ cũ và dân chủ mới đồng thời nhấn mạnh tới sự khác biệt và hơn hẳn của nền dân
chủ mới đối với nền dân chủ cũ (dân chủ tư sản) và cho rằng thực hiện thành công
dân chủ mới là điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, trong quan niệm của Hồ
Chí Minh, dân chủ có trình độ và bước phát triển từ thấp lên cao, gắn chặt với
sự phát triển của xã hội loài người trên các phương diện chính trị, khoa học,
kinh tế, khoa học kỹ thuật và các tiến bộ xã hội khác.
3. Thực hành dân chủ
Xuất phát từ quan niệm về quyền hành,
lực lượng cũng như lợi ích đều thuộc về nhân dân, Hồ Chí Minh coi thực hành dân
chủ là sự huy động và sử dụng tối đa quyền hạn, lực lượng của toàn dân để thực
hiện những nhiệm vụ của cách mạng vì lợi ích của nhân dân ở tất cả các thời kỳ
phát triển.
a. Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ
rộng rãi
- Năm 1941, trong Chương trình của
Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, Hồ
Chí Minh đã thiết lập một chế độ dân chủ cộng hoà cho nước ta sau khi cuộc cách
mạng nhân dân được thực hiện thắng lợi. Đó là chương trình thực hiện mục tiêu dân
chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh nước nhà; gắn
độc lập, tự do của tổ quốc với quyền lợi của từng người dân.
- Dân chủ ở nước Việt Nam mới được
thể hiện đầy đủ và đảm bảo trong đạo luật cơ bản nhất là Hiến pháp năm
1946 và Hiến pháp năm 1959 do Người làm Trưởng ban soạn thảo
- Người chú trọng bảo đảm quyền lực
của các giai cấp, tầng lớp, các cộng đồng dân tộc trong thể chế chính trị nước
ta.
b. Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong
xã hội
Trong xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh chú trọng tới xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước
của dân, do dân và vì dân, xây dựng Mặt trận với vai trò là liên minh chính
trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung của sự
phát triển của đất nước.
- Cần đảm bảo và phát huy dân chủ
trong Đảng thì mới đảm bảo được dân chủ của toàn xã hội. Dân chủ trong Đảng là
yếu tố quyết định tới trình độ dân chủ của toàn xã hội.
- Nhà nước thể hiện chức năng quản
lý xã hội của mình qua việc bảo đảm thực thi ý chí của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động đối với sự phát triển của đất nước. Nhà nước thể chế hoá toàn bộ bản
chất dân chủ của chế độ.
- Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
thể hiện quyền làm chủ và tham gia quản lý xã hội của tất cả các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội.
II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO
DÂN,
VÌ
DÂN
1. Xây dựng Nhà nước
thể hiện quyền
làm chủ của nhân dân
Nhà nước mới theo Hồ Chí Minh
phải là nhà nước của dân tộc, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp
được đội ngũ cán bộ, công chức có đủ đạo đức và tài năng tham gia vào công cuộc
xây dựng Nhà nước. Đây phải là nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Quan điểm đó
xuyên suốt, có tính chi phối toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của Nhà
nước cách mạng.
Quan điểm xây dựng Nhà nước của Hồ Chí Minh được kế thừa
và phát triển dựa trên học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước cách mạng.
Quan điểm về Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung sau đây:
a. Nhà nước của dân
Nhà nước của dân là nhà nước mà tất
cả quyền lực đều thuộc về nhân dân. Người
dân hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật
không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
- Quan
điểm này của Người được thể hiện trong Hiến Pháp 1946 do Người làm trưởng
ban soạn thảo đã khẳng định rõ: “Nước Việt Nam là Nhà nước dân chủ Cộng hòa.
Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp tôn giáo”.
Điều 32 -
Hiến Pháp 1946 cũng quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ được
đưa ra phúc quyết…” thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân
chủ trực tiếp được đề ra rất sớm ở nước ta.
- Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước,
vì vậy, nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, với những quyền sau:
+ Thứ nhất, thực hiện quyền dân chủ
của nhân dân, dân bầu ra Nhà nước, chính quyền các cấp.
Ngay sau ngày thành lập nước, để có
được một chính phủ của dân, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tiến hành tổ chức
“Càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”.
“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn
thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc
nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có
quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử…Do Tổng tuyển cử mà
toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”.
+ Thứ hai, dân phải kiểm soát giám
sát và có quyền bãi miễn nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân.
“Chính phủ
ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích
của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê
bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân
dân”.
- Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân
là chủ và dân làm chủ.
“Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân”.
b. Nhà nước
do dân
Nhà nước do dân là do nhân dân lập nên, giúp đỡ xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước.
- Nhận thức rõ vai trò to lớn của
quần chúng nhân dân không những trong sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ của những
người cách mạng là làm cho dân hiểu, giác ngộ để nâng cao trách nhiệm làm chủ,
nâng cao trách nhiệm xây dựng Nhà nước của mình.
- Quyền của dân, Nhà nước do dân tạo
ra và nhân dân tham gia quản lý là:
+ Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội –
cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.
+ Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ (Chính phủ).
+ Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành
chính cao nhất của Nhà nước, thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và chấp hành
pháp luật.
+ Mọi công việc của bộ máy nhà nước
trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của dân (thông qua Quốc hội do dân
bầu ra).
c. Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân theo Hồ Chí Minh,
chỉ có một Nhà nước thật sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên
thực tế mới có thể là Nhà nước vì dân được. Đó là Nhà nước phục vụ lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thật sự cần, kiệm, liêm,
chính.
-
Nhà nước đặt lợi ích của dân lên trên hết, các đường lối chủ trương, chính sách
đều phục vụ cho lợi ích của dân. Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, cải
thiện và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của toàn thể quần
chúng nhân dân. Người dặn dò:“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm,việc gì
hại cho dân, ta phải hết sức tránh”.
“sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc”.
- Trong Nhà nước đó, cán bộ từ Chủ tịch trở xuống
đều là công bộc, là đày tớ cho nhân dân, chứ không phải làm quan cách mạng. Đối với chức Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng
quan niệm là do dân uỷ thác cho và phải phục vụ nhân dân, làm đày tớ cho dân.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai
cấp công nhân với tính nhân
dân và tính dân tộc của Nhà nước
Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân, vì dân mang bản chất giai cấp công
nhân.
a. Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp
công nhân của Nhà nước được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
- Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
+
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân. Đây là yếu tố cơ bản bảo đảm
tính giai cấp của Nhà nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ
bản chất của cuộc cách mạng nhân dân ta tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, trong “Lời nói đầu”
của Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân
dân, dựa trên nền tảng liên minh công – nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp,
phù hợp với từng thời kỳ
- Tuy nhiên, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có những vấn đề
cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ. Đó là:
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương
để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ
chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
b. Bản chất
giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự
phát triển đất nước
Điều này đã được thể hiện ngay trong “Bản Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945, “Bằng
cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền
kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế lạc hậu
thành nền kinhh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp nông nghiệp hiện đại,
khoa học và kỹ thuật tiên tiến”.
c. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta
thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập
trung, dân chủ
Hồ
Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy,
cơ quan Nhà nước, nhấn mạnh đến phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao
độ tập trung.
Hồ
Chí Minh viết: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ…Có phát huy dân chủ đến
cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến
lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây
dựng chủ nghĩa xã hội”.
2.2.2. Bản chất giai cấp công nhân
thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước
Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối
quan hệ giữa các vấn đề giai cấp, dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới.
Người đã giải quyết hài hoà, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân
dân, tính dân tộc và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau
a. Nhà nước
ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ
người Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam rơi vào
cuộc khủng hoảng về đường lối cách mạng. Các cuộc đấu tranh của nhân dân diễn
ra vô cùng oanh liệt nhưng độc lập tự do cho dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực.
- Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, vượt qua hạn
chế của lịch sử, lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong cuộc cách mạng tháng
8/1945, đấu tranh giành chính quyền, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên
ở Đông Nam Á.
Hồ Chí Minh nói: “Đó là hoa, là quả của bao nhiêu máu đã
đổ và bao nhiêu tính mạng đã hi sinh của những người con anh dũng của Việt Nam
trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém,
trên chiến trường”.
b. Nhà nước
ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản
Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta không
những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân
và của toàn dân tộc
c. Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ cả dân tộc giao phó, lãnh đạo
nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến, góp phần vào nền hoà bình dân tộc, vào
sự phát triển tích cực của thế giới
Nhờ biết phát huy sức mạnh đoàn kết
toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước
do Hồ Chí Minh đứng đầu đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang là lãnh đạo cả dân tộc tiến hành thắng lợi
hai cuộc kháng chiến vĩ đại trong lịch sử, bảo vệ được nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc và bắt
tay vào xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bản chất giai cấp công
nhân của nhà nước ta, không làm triệt để tính nhân dân, tính dân tộc của nhà
nước mà trái lại nó thống nhất hài hòa trong nhà nước đại đoàn kết dân tộc. Bởi
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: giai cấp
công nhân không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích dân tộc và chỉ có giải phóng
dân tộc mới giải phóng được giai cấp
công nhân một cách triệt để.
2.3. Xây dựng
Nhà nước có hiệu
lực pháp lý mạnh mẽ
- Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vị
trí vai trò của pháp luật trong điều hành và quản lý xã hội. Trong “Việt Nam yêu cầu ca” Người nhấn mạnh:
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”
2.3.1. Xây dựng
Nhà nước hợp pháp, hợp
hiến
a. Nhà
nước pháp quyền trước hết là một Nhà nước hợp pháp
Sau
khi giành được chính quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ Lâm thời đọc “Bản tuyên ngôn độc lập”,
tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới về sự khai sinh của Nhà nước Việt
Nam mới, qua đó biểu dương lực lượng và ý chí của toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập của mình. Nhờ đó Chính phủ lâm thời do
cách mạng của nhân dân lập nên có địa vị hợp pháp.
b. Nhà nước hợp
hiến
- Ngay tại phiên họp đầu tiên của chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa (3/9/1945) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ: Chúng ta phải
có hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng
tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu để sớm có một Nhà nước hợp hiến do nhân
dân bầu ra.
- Mặc dù diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn nhưng cuộc Tổng
tuyển cử đầu tiên trong lịch sử đã thành công tốt đẹp. Đây là Chính phủ hợp hiến
đầu tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong
việc giải quyết mọi vấn đề của Nhà nước Việt Nam mới.
2.3.2. Hoạt động
quản lý nhà nước
bằng Hiến pháp và pháp luật, chú trọng
đưa pháp luật vào cuộc sống
Theo Hồ Chí Minh Nhà nước pháp
quyền là nhà nước mà mọi người được tôn trọng, dân chủ được mở rộng, người dân
sống và làm việc theo luật định. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phải thể hiện
được việc điều hành và quản lý xã hội bằng pháp luật thật sự dân chủ.
- Hồ Chí Minh yêu cầu Nhà nước phải chú
trọng xây dựng hệ thống pháp luật, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi
hành, cũng như cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật trong các cơ
quan nhà nước và trong nhân dân.
- Hồ Chí Minh đòi hỏi cán
bộ nhà nước phải là người tuân thủ pháp luật trước hết
- Coi trọng nâng cao dân
trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tích cực công
dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước, phê bình,
giám sát công việc của nhà nước, khắc phục dân chủ hình thức “làm sao cho nhân
dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dung quyền dân chủ của mình, dám nói, dám
làm”.
- Trong thi hành pháp luật
phải đảm bảo tính vô tư, khách quan, công bằng, bình đẳng của nhân dân trước
pháp luật.
2.3.3. Xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức
và tài
Đây
là một vấn đề thu hút nhiều tâm lực của Hồ Chí Minh. Người cho rằng, hiệu quả
hoạt động của bộ máy Nhà nước phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức. Người cán bộ là gốc của mọi việc, “công
việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém”
a. Tuyệt đối trung thành với
cách mạng
Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối với đội ngũ cán bộ
công chức. Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ Nhà nước. Lòng
trung thành đó phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ trong mọi lĩnh vực công
tác, thể hiện trong thực tế công tác.
b. Hăng hái,
thành thạo công việc, giỏi chuyên môn nghiệp vụ
- Chỉ với lòng nhiệt tình thì chưa đủ, đội ngũ cán bộ,
công chức phải chuyên sâu nghiệp vụ, phải luôn luôn học tập không ngơi nghỉ,
học mọi lúc, mọi nơi, học suốt đời.
- Hồ Chí Minh là tấm gương điển hình của tự học, Người
học những kiến thức về nhà nước trong suốt cả cuộc đời.
c. Phải có
mối liên hệ mật thiết với nhân dân
Hồ
Chí Minh luôn chủ trương xây dựng mối liên hệ chặt chẽ giữa đội ngũ cán bộ công
chức với nhân dân.
- Xuất
phát từ nhận thức chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể làm cho chính quyền trở
nên mạnh mẽ và sáng suốt, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải “thân dân”, gần dân,
không được lên mặt “quan cách mạng” với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm
soát của dân. Đó là những người có ý thức làm “công bộc”, làm “đầy tớ” cho dân.
- Hồ
Chí Minh đòi hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống
bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền.
d. Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ
trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó
khăn,”thắng không kiêu, bại không nản”.
-
Đó là những người có ý thức sẵn sàng làm “công bộc” , làm “đày tớ”, “trâu ngựa” cho dân, những người cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư, làm việc với tinh thần đầy sáng tạo.
- Để
có đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa,
Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng, luôn luôn có chí tiến thủ, luôn luôn học tập để nâng cao trình
độ chuyên môn.
-
Hồ Chí Minh rất quan tâm và chỉ đạo xây dựng chế độ thi tuyển đội ngũ cán bộ
công chức nhà nước.
e. Phải thường xuyên tự phê bình và
phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà
nước
Vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, đội ngũ cán bộ
công chức phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, không thành kiến hẹp hòi
hay bao che, giấu diếm khuyết điểm.
Chức vụ, quyền hạn của cán bộ công chức trong bộ máy
nhà nước là do dân uỷ thác, uỷ quyền để làm việc cho ích quốc, lợi dân, không
vì chủ nghĩa cá nhân.
2.4. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
2.4.1. Đề
phòng và
khắc phục
những tiêu
cực trong
hoạt động
của Nhà
nước
-
Sức mạnh, hiệu quả của Nhà nước một mặt dựa vào tính nghiêm minh của việc thi
hành pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, sự trong sạch của đạo đức của
người cầm quyền. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi “cán bộ phải thực hành
chữ Liêm trước để làm kiểu mẫu cho
dân”.
- Sau
khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh gửi “Thư cho Uỷ ban
nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” nêu rõ 6 căn bệnh cần đề phòng: trái
phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.
Người
nhắc nhở: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra
sức sửa chữa. Vậy nên, ai không vi phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết
sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh
phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi
sâu những chữ “công bình chính trực” vào lòng”.
-
Hồ Chí Minh thường đề cập những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng
và khắc phục:
+ Đặc quyền, đặc lợi.
Xây
dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là
người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền đồng
thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm
như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.
+ Tham ô, lãng phí, quan liêu.
·
Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ô, lãng
phí và bệnh quan liêu dù là cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân
và phong kiến…Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”.
·
Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí,
quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc
ngoại xâm. Người phê bình những người “lấy của công dung vào việc tư, quên cả
thanh liêm, đạo đức”.
·
Người
chỉ ra mối quan hệ giữa đánh thù trong và diệt giặc ngoài: “Chống tham ô, lãng
phí và bệnh quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận”… “Nếu
chiến sĩ và nhân dân ta ra sức chống ngoại xâm và quên chống giặc nội xâm, như
thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”.
+ “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”.
Những hành động này gây mất đoàn kết, gây rối
cho công tác. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu
mình không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ.
Trong
chính quyền còn chia rẽ, không biết cách làm cho mọi người hoà thuận với nhau,
còn có người “bênh vực lớp này, chống lại lớp khác”. Ngoài cậy thế, kiêu ngạo,
“tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi…Cử chỉ lúc nào cũng vác
mặt quan cách mạng”, làm mất uy tín của Chính phủ.
2.4.2.Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với giáo dục đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần
nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt
đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng nghìn năm
lịch sử kết hợp nhuần nhuyễn giữa “đức tr” và “pháp trị”).
- Đạo đức và pháp luật trong tư tưởng
Hồ Chí Minh không hề loại trừ nhau mà thống nhất bổ sung cho nhau. Người sử
dụng “đức” để cảm hóa, ngăn cản những thói hư tật xấu, hạn chế thấp nhất cái ác
nảy sinh ở mỗi con người. Song nếu một ai đó phạm tội thì Người nghiêm trị theo
pháp luật.
- Để đưa pháp luật vào cuộc sống, Hồ
Chí Minh kêu gọi nhân dân hãy tham gia giám sát công việc của Chính phủ. Hồ Chí
Minh viết: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong nhân viên còn có nhiều khuyết
điểm. Có người làm quan cách mạng, chợ đỏ, chợ đen, mưu vinh thân, phì gia…xin
đồng bào hãy phê bình, giúp đỡ giám sát công việc của Chính phủ”.
III. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng Nhà nước
của dân, do dân, vì dân có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, sâu sắc, định hướng
cho việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ, Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Học tập và
quán triệt tư tưởng này để xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn
cách mạng mới là hết sức cần thiết.
3.1. Nhà
nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân
- Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội
dung cơ bản trong yêu cầu xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hoá
bằng Hiến pháp và Pháp luật, đưa hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống, đảm bảo
cho mọi người bình đăng trước pháp luật.
- Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động,
cần chú ý thực hiện những quy tắc dân chủ trong các cộng đồng dân cư, tuỳ theo điều
kiện của từng vùng, miễn là các quy tắc đó không trái với những quy định của Pháp
luật.
3.2. Kiện
toàn bộ máy hành chính Nhà nước
- Đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực và có hiệu quả đối với nhân dân. Kiên
quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu,
tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, sự sa sút phẩm chất đạo đức cách
mạng, năng lực thực hành nhiệm vụ công chức kém cỏi.
- Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện
nay còn cần chú ý cải cách các thủ tục hành chính; đề cao trách nhiệm cá nhân
trong việc giải quyết các khiếu kiện của công dân theo đúng quy định của pháp
luật.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức phải
được đặt lên hàng đầu và phải được tiến hành thường xuyên, bảo đảm chất lượng.
3.3. Tăng
cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Trong giai đoạn hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện ở
những nội dung như:
- Lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá, đường lối, chủ trương
của Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước:
+ Lãnh đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của
Đảng trong các cơ quan Nhà nước bằng vao trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng
viên hoạt động trong bộ máy Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
+ Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ
thống chính trị trên cơ sở đảm bảo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước
theo luật định.
+ Bản chất, tính chất của Nhà nước ta gắn liền với
vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền. Do đó, sự trong sạch, vững mạnh của
Đảng cộng sản Việt Nam chính là yếu tố quyết định cho thành công của việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Comments[ 0 ]
Post a Comment