* Cơ sở
lựa chọn một hình thức NN phù hợp với thực tế Việt Nam
- CSLL:
TTHCM về NN được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo các
tư tưởng đã có trước đó.
+ VH chính
trị của Việt Nam trong LS: Trong LS hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước,
cha ông ta đã tích lũy được những kinh nghiệm quý báu về XDNN, được phản ánh
trong các bộ sử lớn của dân tộc như: Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến
chương loại chí…Kinh nghiệm làm luật, trị nước cũng được ghi lại trong các bộ
luật nổi tiếng như Hình thư (đời Lý), Quốc triều hình luật (đời Lê)… mà giá trị
của nó có thể sánh ngang với các bộ luật nổi tiếng ở phương Đông và phương Tây.
Ví dụ vấn đề bình đẳng đối với phụ nữ: cho phép li hôn, có quyền thừa kế tài
sản, công nhận công lao chung của vợ chồng trong vấn đề tài sản, cho phép nhận
con nuôi…
Bên cạnh đó là những yếu tố tích cực của NN thân dân thời kỳ PK hưng
thịnh trong LSDT cùng với tư tưởng nước lấy dân làm gốc… chính là những cơ sở
VH chính trị đầu tiên của HCM trên con đường tìm kiếm một mô hình NN tiến bộ
cho đất nước sau khi giành được độc lập
+ Các giá
trị VH chính trị của loài người:
. HCM kế thừa, phát triển các tinh hoa VH phương Đông trong tổ chức, quản
lãnh, đặc biệt là triết lý đức trị của “Nho giáo”
. Tiếp thu chọn lọc, phê phán tinh hoa VH tư sản trong vấn đề tổ chức,
hoạt động của NN, nhất là quan niệm về bản chất dân chủ, nhân đạo của NN, quan
niệm về xây dựng NN pháp quyền, về quyền tự do, dân chủ, quyền công dân và
quyền con người
+ CNML: Người đã
quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết về NN và NNVS của CNML trong xây
dựng NNVN mới
Trên cơ sở các tiền đề tư tưởng đó, HCM đã dần hình thành các quan điểm
lý luận riêng về một kiểu NN phù hợp với thực tế Việt Nam – NN dân chủ ND
- CSTT:
Người có sự nghiên cứu, khảo sát các kiểu NN trên TG,
+ NNPK VN đương thời đã bất lực trong nhiệm vụ xây dựng đất nước cũng như
giữ nước trước sự xâm lăng của TDP. Con đường cứu nước theo hệ tư tưởng PK của
các phong trào kháng chiến chống Pháp: Cần Vương, Hoàng Hoa Thám đều lần lượt
thất bại. Trên bình diện thế giới, chế độ PK đã hết vai trò LS và sự thay thế
của chế độ TBCN là một tất yếu LS
+ NN thực dân PK: tiêu biểu là NN Việt Nam, Châu Phi, quá trình nghiên
cứu, khảo nghiệm thực tế, Người đã phát hiện ra những bản chất xấu xa, thấy
rằng đây là 1 kiểu NN không thể chấp nhận được, cần đập tan, thủ tiêu nó và
thay thế bằng 1 mô hình NN khác tiến bộ hơn
+ NNTS: Sự cai trị của chính quyền TS – TDP ở Việt Nam khi đó đã gây cho ND
một cuộc sống cơ cực về kinh tế, bị chà đạp về nhân phẩm, những giá trị dân chủ
cao đẹp thông qua khẩu hiệu Tự do – Bình đẳng – Bác ái đã không được thực hiện
ở thuộc địa, đông đảo ND lao động ở nước Pháp và cả ở những nước TB mà NAQ đã
đi qua. Các con đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản của PBC, PCT,
NTH đều thất bại. Người đã khẳng định sau khi CMVN giành được thắng lợi sẽ
không đi theo mô hình NNTS như các nước Pháp, Mỹ, Anh
+ NN Xô Viết: thấy được những ưu điểm vượt trội, thật sự đề cao vai trò
của ND, giành lấy chính quyền về tay ND, lập nên các xô viết công nông binh,
xây dựng một mô hình NN kiểu mới: Phát
đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền…ra sức tổ chức kinh tế
mới để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng… Đó là những gợi ý cho HCM về
1 kiểu NN sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai
I. XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC THỂ HIỆN QUYỀN LÀ CHỦ VÀ LÀM CHỦ CỦA ND
Nếu vấn
đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của
một chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai.
(Khái niệm NN của dân, do dân, vì dân không
phải do HCM đầu tiên đề ra. Người nêu ra khái niệm này là Lincôn (tổng thống Mỹ
cuối thế kỷ XIX) người đã tiến hành cuộc chiến tranh ly khai nhằm xóa bỏ chế độ
nô lệ ở Mỹ. Ông tuyên bố: “Chế độ dân chủ
là chính quyền của dân do dân vì dân; một chính quyền như vậy sẽ không tàn lụi
khỏi trái đất này”. Có điều, các nhà lập pháp tư sản chỉ nói mà không làm.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh và các
bài phát biểu của Người sau Cách mạng tháng 8, HCM nhắc đến Tuyên ngôn độc lập
của nước Mỹ và phê phán mô hình của NN tư sản)
Bộ máy tổ chức NN ta bao gồm:
- Quốc hội: Là cơ quan đại biểu cao nhất của ND,
cơ quan quyền lực NN cao nhất. Mọi quyền lực NN được thống nhất ở QH. QH có
nhiệm vụ và giới hạn chủ yếu: lập pháp, hiến pháp, giám sát tối cao việc tuân
thủ hiến pháp, pháp luật, quy định những vấn đề quan trọng trong phát triển
KT-XH của đất nước và nhiều nhiệm vụ quan trọng về tổ chức cán bộ, về các chính
sách…
- Chủ tịch nước: Là người đứng đầu NN thay mặt đất
nước về đối nội và đối ngoại, do QH bầu, chủ tich nước phải báo cáo công việc
của mình trước QH và chịu trách nhiệm trước QH
- Chính phủ: Được xây dựng theo hướng tập trung
vào lĩnh vực hành chính NN, vừa là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực cao
nhất, CP cũng được xác định là cơ quan hành chính NN cao nhất, CP thống nhất
quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ KT, VH, XH, QP, AN và đối ngoại NN.
- Ngoài ra bộ máy NN ta còn có TAND và
VKSND
- Tổ chức bộ máy các cấp: HĐND, UBND, TAND địa phương
1. NN
của dân
Đó là NN mà ND là người chủ
HCM có
quan điểm nhất quán về xây dựng một NN mới ở Việt Nam là một NN do ND lao động
làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của HCM về xây dựng NN Việt Nam dân chủ
cộng hòa do Người sáng lập.
- Được thể hiện trong các bản HP do
Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo
+ Điều 1 HP/1946 đã khẳng định rõ: “Nước Việt Nam là NN dân chủ Cộng hòa.
Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể ND Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp tôn giáo”
+ Điều 32 – HP/1946 cũng quy định: “Những
việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra ND phán quyết…” thực chất đó là
chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra rất sớm ở
nước ta.
Ngay từ đầu năm 1927, trong tác phẩm “Đường cách mệnh” Người đã chỉ rõ: “Chúng
ta đã hy sinh làm cách mạng, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm xong cách
mạng rồi, thì giao quyền cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay bọn ít người.
Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc”.
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”
- Nhân dân có quyền
kiểm soát, giám sát NN
ND có quyền kiểm soát, giám sát và bãi
miễn đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng ND các cấp nếu các vị đại biểu ấy
không hoàn thành nhiệm vụ ND giao phó, không xứng đáng với sự tín nhiệm của ND
Các vị đại diện của dân, do dân cử ra
chỉ là thừa quyền của dân, chỉ là công bộc của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ
này. Nhưng trên thực tế lại có những “vị đại diện” đã lầm lẫn sự uỷ quyền đó
với quyền lực cá nhân, sinh ra lộng quyền, cửa quyền…“Cậy thế mình ở trong ban
này, ban nọ, rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận,
không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không
phải là để cậy thế với dân”.
Ngay sau khi chính quyền ND vừa được
thành lập, HCM đã kêu gọi ND tham gia giám sát công việc của Chính phủ: “Từ
ngày thành lập chính phủ, trong nhân viên còn có nhiều khuyết điểm. Có người
làm quan cách mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân phì gia… Xin đồng bào hãy
phê bình, giám sát công việc của Chính phủ”.
HCM cũng yêu cầu các cán bộ NN:
“Chính phủ ta là Chính phủ của ND, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi
ích của ND. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình
để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận tụy của ND”.
Trong Hiến pháp nước HPCHXHCN năm 1992, Điều 8 ghi rõ: “Các cơ quan NN,
cán bộ, viên chức NN phải tôn trọng ND, tận tuỵ phục vụ ND, liên hệ chặt chẽ
với ND; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, tham nhũng”.
Điều 2, Hiến pháp năm 2013 quy định: "1.
NN CHXHCNVN là NN pháp quyền xã hội chủ nghĩa của ND, do ND, vì ND. 2. Nước
CHXHCN do ND làm chủ; tất cả quyền lực NN thuộc về ND mà nền tảng là liên minh
giữa GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức", đã thể hiện nhất
quán quan điểm của Đảng và NN ta về đề cao quyền làm chủ của ND, đồng thời thể
hiện đất nước Việt Nam là do chính ND làm chủ, ND là chủ thể quan trọng trong
xây dựng và bảo vệ đất nước. Lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 từ Nhân dân được viết hoa, đây không phải
đơn thuần là cách thể hiện từ ngữ mà là diễn đạt ý nghĩa của một chủ thể quan
trọng của đất nước theo tư tưởng của Bác Hồ. Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ,
Bao nhiêu lợi ích đều là vì dân,
Công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân,
Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra,
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên,
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
* Hiện nay, để thực
hiện hiệu quả sự giám sát của ND đối với quyền lực nhà nước, cần thực hiện tốt
một số vấn đề:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và bv
người dân trong giám sát quyền lực. Sự phát triển mọi mặt đời sống XH, đặc biệt
sự phát triển của ý thức PL, sự bùng nổ các phương tiện truyền thông cũng như
trình độ DC ở nước ta được nâng lên... đã làm cho người dân nhận thức ngày càng
rõ hơn về trách nhiệm, quyền hạn của mình trong kiểm soát, giám sát hoạt động
của NN. Tuy nhiên, một bộ phận ND hiện nay vẫn chưa thực sự nhận thức rõ, hoặc
cố tình lợi dụng để khiếu kiện kéo dài, vượt cấp mặc dù đã được trả lời, giải
đáp. Mặt khác, cơ chế để bảo vệ, biểu dương người tố cáo vi phạm còn thiếu chặt
chẽ, nhiều người dũng cảm tố cáo tiêu cực, tham nhũng đã bị trả thù, bị gây khó
dễ và trở thành những đối tượng “đặc biệt”, thậm chí lập dị so với cách ứng xử
thông thường của số đông, điều đó đã làm giảm ý chí của nhiều người. Cho nên,
khuyến khích người dân giám sát quyền lực nhà nước chỉ có hiệu quả khi họ hiểu,
họ biết và họ dám lên tiếng, và họ được bảo vệ trước PL
Thứ hai, nâng cao hơn nữa hiệu quả các cơ
quan đại diện của dân trong giám sát. Đây là vấn đề được ND đặc biệt quan tâm. MTTQ
và các tổ chức CTXH là cơ quan đại diện của ND cần phát huy tốt hơn vai trò
trong giám sát và phản biện XH không chỉ quá trình hoạch định các quyết sách
chính trị, mà cả quá trình tổ chức thực hiện các quyết sách đó.
Thứ ba, hoàn thiện và cụ thể hóa cơ chế ND
thực hiện quyền giám sát trực tiếp đối với quyền lực nhà nước. ND không chỉ
tuyệt đối ủy quyền cho các cơ quan đại diện, mà còn trực tiếp tham gia vào xây
dựng chính quyền, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước ở mọi cấp. Sự tham
gia trực tiếp của ND không đơn thuần là vấn đề quan điểm lý luận, mà là một vấn
đề thực tiễn. Trên thực tế, nhiều vụ tiêu cực trong các lĩnh vực khác nhau đã
được người dân và dư luận phanh phui, lên án thời gian qua là những bằng chứng
hùng hồn nói lên điều đó. Trong thời gian tới, cần phải phát huy hơn nữa hình
thức dân chủ trực tiếp của ND theo hướng: “hoàn thiện chế định bầu cử, quyền
bãi nhiệm đại biểu của ND; hoàn thiện cơ chế để ND thực hiện quyền tham gia
quản lý NN và XH, quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở, thảo luận các vấn đề quan
trọng; xây dựng cơ chế để ND thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân”
- ND được hưởng mọi quyền dân chủ nghĩa là có quyền làm bất cứ việc
gì PL không cấm đồng thời phải có nghĩa
vụ tuân theo PL
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”
Dân là chủ có nghĩa là xác định vị trí của
dân, còn dân làm chủ nghĩa là xác định quyền lợi, nghĩa vụ của
dân. Trong NN của dân với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân
chủ. Bằng thiết chế dân chủ, NN phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của ND,
để cho ND thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội.
Khái niệm dân chủ, dân quyền tuy ra
đời sớm, từ trong xã hội cổ Hy Lạp, nhưng phải chờ đến các cuộc CMXH ở thời kỳ
cận đại, nổ ra rầm rộ ở thế kỷ XVIII, XIX thì mới trở thành thể chế NN mang
tính phổ biến. Trong các xã hội, nơi GCTS là giai cấp cầm quyền, dân chủ, dân quyền
tuy đã được thiết định thành thể chế NN khá chặt chẽ và đã tồn tại hàng trăm
năm, nhưng vẫn còn mang nặng tính hình thức, trên danh nghĩa mà thôi.
Người thường nói: “Trong bầu trời
không gì quý bằng ND”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân
là chủ”.
Khi dân là chủ và dân làm chủ, quyền
lực của ND được đặt ở vị trí tối thượng thì cán bộ NN không còn là “phụ mẫu chi
dân” (cha mẹ dân) mà là những công bộc của ND. Trong Thư gửi Uỷ ban ND các kỳ, huyện và làng, Chủ tịch HCM lưu ý: “Chúng
ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều
là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ không phải đè
đầu dân như trong thời kỳ dưới sự thống trị của Pháp, Nhật”.
2.
NN do dân
Là NN do nhân dân xây dựng nên
- Là NN do
dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình với hình thức phổ thông đầu phiếu,
dân chủ trực tiếp
Tư tưởng NN do ND lập nên đã được thể
hiện ngay trong phiên họp đầu tiên của HĐCP lâm thời ngày 3/9/45, HCM đã đề
nghị Chính phủ tiến hành “Càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ
thông đầu phiếu”.
Người nhấn mạnh: “Tổng tuyển cử là
một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh
vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước
thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử… Do Tổng
tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó
thật là Chính phủ của toàn dân”.
Hưởng
ứng lời hiệu triệu thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, ngày 6-1-1946, với tinh thần
yêu nước nồng nàn và khí thế hào hùng của CMT8, ND ta từ Bắc chí Nam, trên khắp
mọi miền của Tổ quốc đã nô nức tham gia bầu cử, bất chấp sự phá hoại điên cuồng
của các thế lực xâm lược và chống đối.
QH khóa I (1946 – 1960) bầu ra 403
đại biểu, trong đó 333 đại biểu được bầu, 70 ghế theo đề nghị của HCM (50 ghế
cho đại biểu VN quốc dân Đảng; 20 ghế cho VNCMĐMH), những đại biểu không qua
bầu cử gọi là đại biểu truy nhận. Tuy lúc đầu có 403 đại biểu nhưng đến khóa
mùa thu năm 1946 thì chỉ còn 291 đại biểu và khi mãn hạn chỉ còn 242 vì hầu hết
các đại biểu đối lập thuộc Việt Quốc, Việt cách đã bỏ chạy sang Trung Quốc khi
không còn sự hậu thuẫn về quân sự và chính trị của quân đội Trung Hoa dân quốc
sau Hiệp định sơ bộ 6/3/1946
Kỳ họp thứ nhất (2/3/1946) công nhận CPLHKC
do HCM làm Chủ tịch, Vĩnh Thụy làm cố vấn tối cao. QH Khóa I đã thông qua Hiến
pháp đầu tiên 1946 (9/11/1946), thông qua Hiến pháp sửa đổi (31/12/1959), ban
hành sắc lệnh cải cách ruộng đất, phê chuẩn Hiệp định Giơnevo.
Trong lịch sử hiếm có một quốc gia nào vừa
giành được độc lập, với biết bao khó khăn đang chồng chất lại dám quyết định tổ
chức một cuộc tổng tuyển cử thật sự dân chủ và sớm ban bố những sắc lệnh về
Tổng tuyển cử và dự thảo Hiến pháp như nước Việt Nam ta hồi bấy giờ.
Trong bối cảnh thù
trong, giặc ngoài đe dọa, chống phá, tình hình đất nước như "ngàn cân treo
sợi tóc", mà cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 vẫn diễn ra thật sự tự do,
dân chủ và thành công phải được coi như một kỳ tích và là một mốc son lịch sử
của thể chế dân chủ ở Việt Nam. Vì: Ở miền Bắc, từ vĩ tuyến 16 trở ra,
từ giữa tháng 9/45, gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch với danh
nghĩa quân đồng minh tràn sang giải giáp quân Nhật, nhưng thực chất là cướp bóc
và nuôi dưỡng, câu kết với các thế lực phản động, - đảng Việt Quốc, Việt Cách,
để chống phá điên cuồng Tổng tuyển cử. Ngày ngày chúng ôm súng canh gác các
đường, các chợ, dọa nạt cử tri, âm mưu bắt cóc, ám sát các ứng cử viên do Việt
Minh giới thiệu. Ngay ở Hà Nội, chúng mang cả tiểu liên đến Ngũ Xá ngăn không
cho đặt hòm phiếu, chúng cấm cả ND treo cờ. Ở tỉnh Phú Thọ, đêm 4/1/1946, chúng
cho người xuống nhà dân thu thẻ cử tri, sai người tháo dỡ khẩu hiệu, áp
phích... Ngoài ra, nạn đói khủng khiếp do thực dân pháp và phát xít Nhật gây ra
làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta từ Quảng Trị trở ra Bắc bộ vẫn chưa dứt hẳn. Ở Miền Nam, từ vĩ
tuyến 16 trở vào, quân đội Pháp được nửa vạn quân đội Anh yểm hộ đã quay trở
lại đánh chiếm Sài Gòn và các tỉnh Nam bộ, cực nam Trung bộ và Tây Nguyên. Ở
những nơi này, chúng dùng quân đội, cảnh sát, mật thám khủng bố ND, cướp của,
đốt nhà hòng ngăn cản tổ chức Tổng tuyển cử...
Ngoài thù trong, giặc
ngoài là "giặc dốt" với hơn 90% đồng bào ta bị mù chữ, "là
một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị ND ta"
cũng là kẻ thù gây không ít khó khăn trở ngại cho cuộc Tổng tuyển cử. Do trình độ
dân trí chưa cao, hơn nữa đây lại là cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên chúng ta tiến
hành phổ thông đầu phiếu, bầu cử ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước, nên ND
còn có nhiều bỡ ngỡ...
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử
đầu tiên ngày 6/1/1946 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ của
nước ta. Người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ của kiếp tôi tớ đã trở thành
"chủ nhân" một nước tự do độc lập, đã khẳng định với thế giới rằng: ND
Việt Nam quyết tâm bảo vệ nền độc lập, có quyền và đã thực sự có đủ khả năng để
tự quyết định vận mệnh lịch sử của mình, tự lựa chọn và dựng xây chế độ mới,
chế độ Cộng hòa dân chủ ND và hiện nay là CHXHCN Việt Nam.
Ở Liên Xô trước đây, sau cách mạng
tháng Mười 20 năm, đến năm 1936 mới thực hiện chế độ bầu cử phổ thông, bình
đẳng, trực tiếp. Trung Quốc, sau cách mạng năm 1949 đến nay Quốc hội vẫn chưa
thực hiện chế độ bầu cử phổ thông, trực tiếp, ở một số nước đến nay vẫn chưa có
các cuộc bầu cử trực tiếp quốc hội.
-
NN do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để NN chi tiêu và hoạt động
- NN do dân phê bình, xây dựng NN (Dân yêu cầu đồng thời đóng góp tinh thần và trí tuệ để XDNN
ngày càng hoàn thiện hơn)
Người cho rằng: “làm việc gì cũng
phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở nên dễ dàng và làm
tốt…“Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”, việc
nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một
phần”.
Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn
đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể
to lớn nghĩ mãi không ra. Như vậy, mọi việc đều phải do lực lượng ND thực hiện.
Nếu không có lực lượng ND thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong. NN muốn
làm bất kỳ việc gì đều phải dựa vào sức dân thông qua việc huy động nhân tài,
vật lực của dân.
Từ sự thừa nhận lực lượng của dân là
vô địch, ngay trong những ngày đầu của chính quyền ND, Chủ tịch HCM đã viết: “Nếu không có ND thì chính phủ không đủ lực
lượng. Nếu không có Chính phủ, thì ND không ai dẫn đường. Vậy nên, Chính phủ và
ND phải đoàn kết lại thành một khối”.
NN và Chính phủ được sinh ra, không phải để làm thay ND, thay xã hội mà là đảm
trách vai trò của người cầm lái, người dẫn đường. Đây là một quy luật muôn đời.
Không chỉ trong xã hội ta mà bất kỳ xã hội nào cũng vậy, lực lượng là ở nơi
dân, NN muốn làm bất kỳ một việc gì cũng phải dựa vào sức dân, thông qua việc
huy động nhân tài, sức dân.
Nói chuyện
với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội (9/1954),
Người căn dặn: “Việc nước là việc chung, mà việc thì rất nhiều, chỉ Bác cháu ta
không làm hết việc đâu. Chúng ta phải dùng năng lực của mọi người”.
Chính vì vậy, HCM thường nhấn mạnh
nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác
ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, xây dựng NN đồng thời phải có trách
nhiệm quản lý NN. Quyền lợi quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm,
nghĩa vụ.
3. NN vì dân
Chỉ có một NN thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát
trên thực tế thì mới có thể là NN vì dân được. Đó là NN phục vụ lợi ích và
nguyện vọng của ND, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, vững mạnh
- NN phục
vụ, chăm lo mọi mặt đời sống của ND, cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của toàn thể quần chúng ND.
NN ta là NN dân chủ, dân chủ trên
thực tế và trong hành động. Bản chất dân chủ của NN thể hiện ở nhiều mặt, song
trước hết là ở mặt quản lý xã hội, lo cho dân chứ không phải đè đầu cưỡi cổ
dân.
HCM viết:“Nước ta là nước
dân chủ
Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân”.
Người dặn dò: “Việc gì lợi cho dân,
ta phải hết sức làm,việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”.
“sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc”.
Người còn nhấn mạnh: “Tất cả mọi
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ đều chỉ nhằm nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của ND”.
Sau khi tuyên bố sự ra đời của nước
Việt Nam mới, Người đã nhìn thấy trước một loạt những vấn đề phức tạp của một
nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Hoàn cảnh đó dễ nảy sinh
nhiều tệ nạn. Vì vậy, HCM chỉ rõ: “Chúng ta hy sinh phấn đấu để giành độc lập.
Chúng ta đã tranh được rồi ...Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ
chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá
trị tự do, độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ”.
Chúng ta phải thực hiện ngay:
“Làm cho dân có ăn
Làm cho dân có mặc
Làm cho dân có chỗ ở
Đem
lại lợi ích cho ND, chăm lo mọi mặt đời sống và thoả mãn các nhu cầu thiết yếu
hàng ngày của họ chính là cách thức tốt nhất để mở rộng, củng cố cơ sở xã hội -
lực lượng của NN, HCM luôn lấy việc đáp ứng và thoả mãn nhu cầu, lợi ích của ND
làm tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả, năng lực hoạt động của NN.
Vì
vậy, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đời sống của ND.
“Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có
lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi... Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh tật
thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”.
- NN vì
dân phải kiên quyết chống đặc quyền đặc lợi và các tiêu cực khác để giữ cho bộ
máy trong sạch
+ Trong NN đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là
công bộc của dân
Khái
niệm công bộc của dân đã được C.Mác nêu ra khi nói về trách nhiệm của viên chức
NN trong khi xây dựng xã hội công dân, khi mà xã hội đã hoàn thành giai đoạn XHCN
để tiến sang giai đoạn CSCN. Còn HCM thì nêu ra ngay từ khi NN mới của Việt Nam
ra đời. Mọi quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân, dân uỷ thác, dân bầu ra những
đại biểu để thực thi quyền lực đó.
Nhiều
NN của giai cấp thống trị khi còn ở giai đoạn tích cực và tiến bộ cũng chủ
trương thân dân, thậm chí cũng tuyên bố là NN “vì dân”, nhưng đó chỉ là một thiện chí hay chiêu bài, bởi vì cái
cơ bản là nếu chính quyền đó không của ND và không do ND làm chủ mà do các ông
quan làm chủ thì không bao giờ có thể vì dân được.
Chủ tịch HCM viết: “Chế độ ta là chế
độ dân chủ, nghĩa là dân làm chủ, đảng ta là đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các
cán bộ từ TW đến khu, đến tỉnh đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào, ngành nào,
đều phải là người đày tớ trung thành của ND”.
+ Đến đây nảy sinh mối quan hệ giữa người chủ NN là ND với
người cán bộ NN là công bộc của dân, do dân bầu ra, được dân ủy quyền.
Trong các chế độ cũ, NN là bộ máy của giai cấp bóc lột dùng
để thống trị và áp bức ND, viên chức quan lại tự xưng là “cha mẹ dân”, đè đầu
cưỡi cổ dân.
Trong chế độ dân chủ, Bác Hồ đã lật
ngược mối quan hệ đó. Người nói: Dân là chủ thì chủ tịch, bộ trưởng, thứ
trưởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho ND chứ không phải
làm quan cách mạng
Cả
cuộc đời HCM là một tấm gương sáng ngời về người suốt đời phụng sự Tổ quốc,
phụng sự ND.
Ngay cả chức vụ Chủ tịch nước, HCM
cũng có quan niệm rất rõ ràng là do ND uỷ thác cho. Khi trả lời các nhà báo,
1/1946, HCM khẳng định: “Tôi tuyệt nhiên không muốn công danh phú quý một chút
nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng
sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận. Bao
giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”.
“Cả đời tôi chỉ có 1 mục đích là phấn đấu cho
quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của
quốc dân
Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi
non, ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó.
Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh
được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc CP, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhịc
cố gắng – cũng vì mục đích đó” – Đó là 1 vị Chủ tịch hoàn
toàn vì dân
Người
nhắc nhở chính quyền các cấp phải tránh cho được các lầm lỗi chính là: Trái
phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. “Vì hạnh phúc của dân
tộc,vì lợi ích của NN, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng”
II. QUAN ĐIỂM CỦA HCM VỀ SỰ THỐNG
NHẤT GIỮA BẢN CHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN VỚI TÍNH ND VÀ TÍNH DÂN TỘC CỦA NHÀ NƯỚC
Về mặt lý luận, các nhà
sáng lập ra CNCSKH đã đề cập rất sâu sắc vấn đề bản chất GC của NN. Mác
Ăngghen, Lênin đã khẳng định NN chỉ ra đời và tồn tại khi GC và đấu tranh GC xuất hiện, do đó NN là sản
phẩm của một xã hội có GC, nó bao giờ cũng mang bản chất một GC nhất định,
không có một NN nào là phi GC và đứng trên GC (chế độ CSNT và giai đoạn cao của
CNCS văn minh không có NN vì GC không có hoặc không còn). Trong tư tưởng HCM, NN
ta là NN của dân, do dân, vì dân nhưng mang bản chất GCCN.
1. Về bản chất GCCN của NN
Khi nói NN của dân, do dân, vì dân
hoàn toàn không có nghĩa là NN phi giai cấp hay siêu giai cấp. Đây là vấn đề
cực kỳ quan trọng, vì nó quyết định toàn bộ nội dung của hiến pháp, pháp luật,
quyết định cả những thuộc tính căn bản khác của NN. Trong báo cáo về Dự thảo
Hiến pháp sửa đổi năm 1960, HCM đã nói: “Tính
chất NN là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là nội dung giai cấp của chính
quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ cho quyền lợi của ai”. Người còn
đặt vấn đề. “Trong NN ấy, giai cấp nào
thống trị, giai cấp nào bị trị. NN ấy bảo vệ lợi ích của giai cấp nào, đàn áp
giai cấp nào?”
Về tính chất của NN ta, Người nói: “NN ta
là NN dân chủ của ND, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do GCCN lãnh đạo”.
Hiến pháp 2013: “Nước CHXHCN do ND
làm chủ; tất cả quyền lực NN thuộc về ND mà nền tảng là liên minh giữa GCCN với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” Vậy theo tư tưởng HCM, NN của dân,
do dân, vì dân về bản chất là NN mang bản chất GCCN
Trong TTHCM, bản chất GCCN của NN
được thể hiện trên các mặt sau đây:
- NN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
CMVN từ sau năm 1930 đến nay là do
ĐCSVN lãnh đạo, dù còn hoạt động bí mật hay khi đã công khai, dù chưa có chính
quyền hay khi đã giành được chính quyền, lúc nào Đảng ta cũng giữ vai trò lãnh
đạo của mình đối với CMVN, trong đó có NN. Đảm bảo và giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với NN là nguyên tắc chính trị hàng đầu. Đó không phải là sự áp
đặt của Đ đối với NN, biến NN thành công cụ thừa hành thụ động của Đ mà là xuất
phát từ bản chất và đòi hỏi khách quan của NN của dân, do dân, vì dân.
+ Đảng lãnh đạo NN nhằm giữ vững và tăng cường bản chất GCCN
Đây là yếu tố cơ bản bảo đảm tính GC của
NN ta theo TTHCM.
“Lời nói
đầu” của Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “NN của ta là NN dân chủ ND, dựa
trên nền tảng liên minh công – nông, do GCCN lãnh đạo”.
Theo HCM, sở dĩ chỉ có GCCN mới lãnh
đạo được NN vì GCCN có những đặc tính cách mạng mà các giai cấp khác không có
được.
“Đặc tính cách mạng của GCCN là: kiên quyết,
triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất
trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây
dựng một xã hội mới, GCCN có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là
chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo
dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành
động, GCCN đều giữ vai trò lãnh đạo”.
Phản bác lại ý kiến nói rằng GCCNVN số lượng quá ít,
không lãnh đạo được cách mạng, HCM cho rằng, nói vậy là không đúng. Lãnh đạo
được hay không là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều hay
ít của giai cấp. GCCN có CNML. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng
theo CNML, Đảng đề ra chủ trương, đường lối, lôi cuốn, tập hợp các giai cấp,
tầng lớp khác tham gia cách mạng và vô sản hóa. Thành thử, đội ngũ chính trị
của GCCN ngày càng phát triển, công nghệ ngày càng phát triển thì số công nhân
lại càng tăng thêm. Chính trên ý nghĩa đó, Người khẳng định: “Quyền lãnh đạo cách mạng chỉ do GCCN nắm”
Như vậy trong quan điểm cơ bản xây
dựng một NN do ND lao động làm chủ, một NN thể hiện tính ND rộng rãi, HCM vẫn
nhấn mạnh nòng cốt của NN là liên minh giữa GCCN, nông dân và trí thức do GCCN
mà đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
+ Đảng lãnh đạo NN bằng phương thức
thích hợp, phù hợp từng thời kỳ
Trong thời kỳ HCM làm Chủ tịch nước,
đất nước ta phải vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm giải phóng và
bảo vệ Tổ quốc, vừa lãnh đạo ND xây dựng chế độ mới. Do đó, phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với NN ta thời kỳ đó không giống với những thời kỳ sau
này.
Sinh thời, bác Hồ vừa là Chủ tịch
Đảng, vừa làm Chủ tịch nước. Theo HP1946, Chủ tịch nước lại đồng thời là chủ
toạ Hội đồng chính phủ. Nhưng HCM đã thực hiện hai chức danh đó một cách rành
mạch và đầy tinh thần trách nhiệm. Là chủ tịch đảng, Người đề cao sự lãnh đạo
tập thể, phát huy dân chủ của BCHTW và Bộ Chính trị; là nguyên thủ quốc gia,
Người tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc, thể chế của NN, không thụ động, ngồi
chờ cũng không lấn lướt công việc đc phân công. Trong kháng chiến chống Pháp,
vì hoàn cảnh chiến tranh, Quốc hội không có điều kiện họp thường xuyên nên mỗi
khi ra sắc lệnh, Người đều báo cáo và xin ý kiến của BTVQH, mời ban thường trực
quốc hội cùng dự họp với hội đồng Chính phủ.
Có những vấn đề cơ bản về phương thức
lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ. Đó là:
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để NN thể chế hóa
thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo NN bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của
mình trong bộ máy, cơ quan NN.
+ Đảng lãnh đạo NN bằng công tác kiểm tra.
- Tính định hướng đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Điều này
đã được thể hiện ngay trong “Bản Tuyên
ngôn độc lập” khai sinh ra nước VNDCCH ngày 2/9/1945, “Bằng cách phát triển
và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu
thành nền kinhh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp nông nghiệp hiện đại, khoa
học và kỹ thuật tiên tiến”.
- Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của NN
là nguyên tắc TTDC
Quốc hội, Hội đồng ND, Chính phủ
trung ương và các cơ quan khác của NN đều phải hoạt động theo nguyên tắc TTDC. HCM
viết: “NN ta phát huy dân chủ đến cao độ…Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới
động viên được tất cả lực lượng của ND đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải
tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo ND xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
+ HCM rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan NN, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân
chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung. NN phải tập trung thống nhất quyền
lực để tất cả mọi quyền lực vào tay ND.
Mặt khác, trong hoạt động của NN, dân
chủ bao hàm chuyên chính. “Phải chuyên chính mới có dân chủ thực sự. Người chỉ
rõ: chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là chuyên chính với ai?... Như cái
hòm đựng của cải thì phải có khóa. Nhà thì phải có cửa… Dân chủ là của quý báu
nhất của ND, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại… Thế thì
dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ”. NN
mang bản chất GCCN chuyên chính với các thế lực xâm phạm lợi ích chính đáng của
ND.
2. Bản chất GCCN thống nhất với tính ND, tính dân tộc của NN
Bản chất GGCN của NN ta không làm
triệt tiêu tính ND, tính dân tộc của NN, trái lại, nó thống nhất hài hòa trong
NN đại đoàn kết dân tộc. Bởi vì như Chủ tịch HCM thường nói, GGCN không có lợi
ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc và chỉ có giải phóng dân tộc mới giải
phóng được GCCN một cách triệt để.
- NN ta ra đời là kết quả của cuộc
đấu tranh lâu dài, gian khổ của bao thế hệ người Việt Nam.
+ Trong
cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta, từ các phong trào
Văn Thân, Cần Vương, Đông Du, Duy Tân đến cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh và bao
cuộc khởi nghĩa yêu nước khác: Yên Bái, Nam Kỳ, Bắc Sơn, Thái Nguyên… Các cuộc
đấu tranh của ND diễn ra vô cùng oanh liệt nhưng độc lập tự do cho dân tộc vẫn
chưa trở thành hiện thực.
+ Năm
1930, ĐCSVN ra đời, vượt qua hạn chế của lịch sử, lãnh đạo ND giành thắng lợi
trong cuộc cách mạng tháng 8/1945, đấu tranh giành chính quyền, lập nên NN dân
chủ ND đầu tiên ở Đông Nam Á.
HCM nói:
“Đó là hoa, là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hi sinh
của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung,
trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường”.
- NN ta bảo vệ lợi ích của ND, lấy
lợi ích của dân tộc làm cơ bản
HCM khẳng
định lợi ích cơ bản của GCCN, của ND lao động và của toàn dân tộc là một. NN ta
không những thể hiện ý chí của GCCN mà còn thể hiện ý chí của ND và của toàn
dân tộc
+ Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, HCM
khẳng định lợi ích cơ bản của GCCN, của ND lao động và của toàn dân tộc là một.
NN ta không những thể hiện ý chí của GCCN mà còn thể hiện ý chí của ND lao động
và của toàn dân tộc.
Chính phủ do HCM đứng đầu luôn luôn
là chính phủ đại diện cho lợi ích của dân tộc.
NN ta bảo vệ lợi ích của ND, lấy lợi
ích của dân tộc làm nền tảng.
- NN ta đã đứng ra làm nhiệm vụ cả
dân tộc giao phó, lãnh đạo ND tiến hành các cuộc kháng chiến, góp phần vào nền
hoà bình dân tộc, vào sự phát triển tích cực của thế giới
NN mới của ta vừa ra đời đã phải đảm
nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân
tộc để bảo vệ thành quả cách mạng. Nhờ biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết dân tộc, trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng, NN do HCM
đứng đầu đã hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang là lãnh đạo cả dân tộc tiến hành
thắng lợi hai cuộc kháng chiến vĩ đại trong lịch sử, bảo vệ được nền độc lập,
thống nhất của Tổ quốc => con đường xã hội chủ nghĩa.
*Bản chất GCCN của NN ta có sự thống
nhất nội tại, biện chứng với tính ND và tính dân tộc.
Cơ sở chủ yếu quy định sự thống nhất
này là ở chỗ GCCN lãnh đạo NN mà “quyền lợi của GCCN và ND dân lao động và của
dân tộc là một”. HCM
thường nhấn mạnh, GCCN không có lợi ích nào khác lợi ích của dân tộc, của ND và
chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được GCCN một cách triệt để. HCM,
không đặt ngang bằng vai trò của các thành tố khi xem xét nó trong một chỉnh
thể thống nhất. Người nhấn mạnh vấn đề bản chất GCCN của NN ta là vấn đề quan
trọng quyết định các vấn đề khác, song không coi nhẹ tính ND và tính dân tộc.
Có thể nói, tư tưởng bao trùm, xuyên suốt của Người về NN mới là NN lợi ích của
ND, của dân tộc làm nền tảng, bảo vệ lợi ích của ND; nó dựa trên nền tảng đại
đoàn kết dân tộc, cốt lõi là liên minh GCCN, giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức do GCCN lãnh đạo đã hàm chứa sự thống nhất không thể tách rời giữa bản
chất GCCN với tính ND và tính dân tộc. HCM chủ trương xây dựng một Chính phủ
đại đoàn kết dân tộc – cơ sở xã hội rộng lớn và vững chắc của NN ta là ND, dân
tộc.
Sự thống nhất giữa bản chất GCCN với
tính ND và tính dân tộc được thể hiện trong suốt quá trình hình thành và phát
triển của NN ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch HCM. Trong suốt quá trình
đấu tranh cách mạng và thiết lập NN, Đại hội quốc dân (ngày 16-17/8/1945 tại
Tân Trào) bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam. Sau khi cách mạng tháng
tám thắng lợi, trong cuộc họp với Ủy ban dân tộc giải phóng, Người đề nghị thi
hành chính sách đoàn kết rộng rãi, thành lập chính phủ thống nhất quốc gia, bao
gồm đại biểu của nhiều đảng phái yêu nước và những nhân sỹ không đảng phái và
yêu cầu rút bớt các thành viên cộng sản ra. Đến cuối năm 1945, để có sự hợp tác
chặt chẽ giữa các đảng phái nhằm tranh thủ hoàn toàn nền độc lập, chủ tịch HCM
lại mở rộng Chính phủ lâm thời thành Chính phủ Liên hiệp lâm thời, cử Nguyễn
Hải Thần làm Phó Chủ tịch chính phủ và nhường thêm hai chức bộ trưởng cho Việt
Nam Quốc dân đảng. Sau cuộc tổng tuyển cử 6/1/1946, trong phiên họp đầu tiên
2/3/1946, HCM đã thỉnh cầu Quốc hội mở rộng thêm ghế cho Việt Nam Cách mệnh
đồng minh hội 20 ghế và VNQDĐ 50 ghế không qua bầu cử là một sách lược mềm dẻo.
Người tập hợp nhiều nhân sỹ trí thức quan lại cao cấp của chế độ cũ tham gia
chính phủ, cử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại), Lê Hữu Từ, Hồ Ngọc Cần … tham gia đoàn
cố vấn tối cao…là một biểu hiện rõ rệt tinh thần đại đoàn kết dân tộc, phù hợp
truyền thống dân tộc, tâm lý và dân trí, hoàn cảnh kinh tế và xã hội.
Sau khi quân đội Tưởng rút về nước,
một số đại biểu các đảng phái đào nhiệm, trốn ra nước ngoài, Chủ tịch HCM được
Quốc hội ủy nhiệm lập ra Chính phủ mới. Trong lời tuyên bố sau khi thành lập
Chính phủ, HCM khẳng định: “Chính phủ mới phải tỏ rõ cái tinh thần đại đoàn
kết, không phân đảng phái…Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần quốc dân liên hiệp,
là một Chính phủ chú trọng trong thực tế và nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền
độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới. Chính phủ
này là chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia”. NN
này luôn luôn bảo vệ lợi ích của ND, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng và thể
hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chính điều này mang lại sức thuyết
phục rất lớn thôi thúc ND Việt Nam với NN của mình đấu tranh kiên cường, không
mệt mỏi để đạt cho kỳ được những mục đích đã đề ra.
Trong tư tưởng HCM, sự thống nhất
giữa bản chất GCCN với tính ND và tính dân tộc không những là cái thuộc về bản
chất nội tại của NN mà còn là một định hướng cơ bản để không ngừng củng cố và
phát triển NN ta.
III. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CÓ HIỆU LỰC
PHÁP LÝ MẠNH MẼ
Từ những ngày đầu hoạt động cách mạng
ở nước ngoài, chủ tịch HCM đã có tư tưởng pháp quyền. Trong bài Việt Nam yêu
cầu ca:
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”
NN có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước
hết phải là NN hợp hiến, hợp pháp. HCM chú ý xây dựng thể hiện trên những điểm
sau đây:
1. Xây dựng NN hợp pháp, hợp hiến
- Theo HCM một NN pháp
quyền trước hết là một NN hợp pháp
Thế nào là NN hợp pháp? NN hợp pháp
phải là NN ra đời đúng theo hiến pháp và pháp luật
Sau khi giành được chính quyền trong
cả nước, (2/9/45), Chủ tịch HCM đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với quốc dân
đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới.
+ Tuyên
ngôn độc lập là văn kiện chính
trị đặc biệt, khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam bằng sức mạnh kỳ diệu của mình
đã giành được độc lập tự do và kiên quyết bảo vệ quyền tự do và độc lập ấy.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là hợp hiến, hợp pháp.
+ Nhờ đó Chính phủ lâm thời do cuộc
cách mạng của ND lập nên có được địa vị hợp pháp, hợp công lý và Việt Nam có
vinh dự là một trong rất ít quốc gia, sau cách mạng, có được một bản Tuyên ngôn
nổi tiếng về quyền của các dân tộc, có giá trị đóng góp vào sự phát triển nền
pháp lý tiến bộ của loài người.
- NN Hợp hiến: là NN ứng dụng chế độ pháp quyền, công quyền đặt dưới
quyền lực của Hiến pháp và pháp luật
- Ngay tại phiên họp đầu tiên của
chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (3/9/1945) Chủ tịch HCM đã đề ra nhiệm vụ:
Chúng ta phải có hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng
hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu để sớm có một NN hợp hiến
do ND bầu ra. Chủ tịch HCM nêu rõ, dưới chế độ chuyên chế của thực dân và phong
kiến "nước ta không có Hiến pháp. ND ta không được hưởng quyền tự do dân
chủ” nên chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Ðề nghị đó có giá trị lịch sử
như một "Tuyên bố lập hiến" của Chủ tịch HCM.
+ 20/9/1945, ký Sắc lệnh số 34 thành
lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp để chuẩn bị đệ trình Quốc hội, gồm 7 vị, do Người
làm Trưởng ban.
+ 17/9/1945, Chủ tịch HCM ký sắc lệnh
ấn định thể lệ Tổng tuyển cử.
Thực hiện nhiệm vụ lập hiến đó, Chính
phủ đã ban hành Sắc lệnh số 14/SL về mở cuộc Tổng tuyển cử và cuộc Tổng tuyển
cử được tiến hành thắng lợi ngày 6/1/1946 với chế độ phổ thông đầu phiếu và lần
đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu
tiên ở Đông Nam châu Á, tất cả mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân
biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo…đều đi bỏ phiếu bầu những
đại biểu của mình vào trong Quốc hội.
- Mặc dù những khó khăn dồn dập do
thù trong, giặc ngoài, cuộc tổng tuyển cử đã được diễn ra sau 4 tháng sau ngày
độc lập. Đây là một cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức nhanh nhất, diễn ra
sớm nhất kể từ sau khi lật đổ ách thực dân phong kiến tay sai, đưa lực lượng
chính trị của ND lên cầm quyền. Cuộc vận động Tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 thật sự là một cuộc đấu tranh chính trị vô
cùng khó khăn và không kém phần quyết liệt, thậm chí đã đổ máu để thực thi
quyền dân chủ chính trị của mọi công dân nước Việt Nam độc lập, tự do ngay
trong những tháng đầu cách mạng mới thành công. Kết quả, cuộc đấu tranh đó đã
thành công rực rỡ. Trong hoàn cảnh Nam Bộ đã bước vào cuộc kháng chiến chống
lại cuộc gây hấn của thực dân Pháp, Bắc bộ phải đối phó với những yêu sách và
hoạt động gây rối của quân đội Tưởng và bè lũ tay sai, cả nước đã có hơn 90% cử
tri đi bỏ phiếu, bầu được 333 đại biểu, trong đó 57% số đại biểu thuộc các đảng
phái yêu nước và cách mạng khác nhau, 43% không đảng phái, 10 đại biểu nữ, 34
đại biểu các dân tộc thiểu số. Riêng ở Hà Nội, cử tri đã chọn được sáu đại biểu
trong số 74 người ứng cử ở thành phố này. Thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên
này là một minh chứng hùng hồn về giá trị sáng tạo và tính thực tiễn của tư
tưởng NN pháp quyền của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc của Chủ tịch HCM.
Ngày 2/3/1946, Quốc hội khoá I đã họp phiên
đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của NN. Quốc hội
bầu HCM làm Chủ tịch chính phủ liên hiệp kháng chiến. Sự kiện này đã đánh dấu
một mốc son lịch sử về sự hoàn thiện và thống nhất giữa tính hiện thực cách
mạng và tính pháp quyền của Chính phủ, cơ quan hành chính cao nhất của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - một Chính phủ chính thức, hợp pháp, hợp hiến, có
đầy đủ uy tín và hiệu lực để điều hành đất nước về cả nhiệm vụ đối nội và đối
ngoại, thực hiện kháng chiến và kiến quốc, giữ vững quyền độc lập tự do của NN
Việt Nam mới.
=> NN hợp pháp, hợp hiến của Việt
Nam đã được ra đời.
2. NN quản lý đất nước bằng Hiến pháp, pháp
luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống
- NN được cai trị bằng Pháp luật và phải làm cho PL có hiệu lực trong
thực tế
Theo HCM NN pháp quyền là NN mà mọi
người được tôn trọng, dân chủ được mở rộng, người dân sống và làm việc theo
luật định. NN pháp quyền là NN phải thể hiện được việc điều hành và quản lý xã
hội bằng pháp luật thật sự dân chủ.
Mọi quan hệ xã hội, mọi lĩnh vực của
đời sống đều chịu sự chi phối của pháp luật. Pháp luật là cơ sở bảo đảm thực
hiện các quyền tự do dân chủ, quyền làm chủ của ND. HCM nhấn mạnh: Pháp luật
của ta là pháp luật dân chủ; mọi công dân của Việt Nam dân chủ Cộng hòa đều
bình đẳng trước pháp luật cả về quyền lợi và nghĩa vụ, ai vi phạm điều phải xử
lý nghiêm khắc, cho dù người đó ở vị trí nào trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
Đảng, NN.
Ngay từ 1919, bản “Yêu sách” đòi
quyền tự do, dân chủ cho ND VN, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp phải cải
cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và
thay thế bằng các đạo luật. Bản Yêu sách gồm 8 điều,
trong đó có 4 điều liên quan tới vấn đề pháp quyền.
Cụ thể là:
Điều 1: Yêu cầu ân
xá đối với tất cả chính trị phạm.
Điều 2: Đòi cải
cách nền công lý ở Đông Dương nhằm đảm bảo cho người bản xứ được hưởng những
đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu. Người nói: “Cải cách nền pháp
lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật
như người châu Âu”.
Điều 7: Đòi thay
thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
Điều 8: Đòi có đoàn
đại biểu thường trực của người bản xứ cử ra tại Nghị viện Pháp.
Và Người đã chuyển
bản yêu sách trên thành “Việt Nam yêu cầu ca” để phổ biến rộng rãi cho mọi
người, trong đó có hai câu:
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải
có thần linh pháp quyền”.
Pháp quyền về bản chất
gắn liền với “thần linh”, nhưng “thần linh” ở đây nghĩa là gì? Đó chính là pháp
luật của tạo hóa mà Người mong muốn hướng đến một nền pháp quyền đối với toàn
xã hội.
Trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp,
ở cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp
(1946, 1959), đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 Sắc lệnh và nhiều văn bản
dưới luật khác.
- Phải đưa pháp luật vào đời sống một cách sâu
rộng
Theo HCM, công bố luật chỉ là bước
đầu, phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài mới thực hiện được luật tốt. Vì vậy,
những biện pháp căn bản là:
+ Cán bộ NN phải là người tuân thủ pháp luật trước hết, cán bộ phải gương
mẫu trong việc tuân thủ pháp luật
Chủ tịch HCM là một tấm gương về việc
tuân thủ pháp luật hiện hành. Do điều kiện lịch sử xã hội nước ta những năm
1945-1954, NN ta phải sử dụng chế độ sắc lệnh để điều hành công việc đất nước.
Hàng trăm sắc lệnh do HCM ký ban hành vào thời kỳ đó. Nhưng thật kỳ diệu, đó
cũng chính là giai đoạn mà chính quyền ta thực sự là một chính quyền gần dân,
thân dân, không độc tài, không mất dân chủ. HCM thời kỳ đó vừa là chủ tịch
Đảng, vừa là Chủ tịch nước đã tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng,
NN bằng cách trước khi quyết định việc quan trọng, Người đều xin ý kiến của Bộ
Chính trị, Ban thường vụ quốc hội.
+ Coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển
văn hoá chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích ND tham gia vào công
việc của NN, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.
HCM yêu cầu cán bộ phải “làm sao cho ND biết hưởng quyền dân chủ,
biết dung quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”.
Lúc dân biết và dám phê bình người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền dân
chủ, tức là đã đến mức dân chủ hoá khá cao.
+ Trong thi hành pháp luật phải đảm bảo tính
vô tư, khách quan, công bằng, bình đẳng của ND trước pháp luật.
Trong việc thi hành pháp luật, cái
khó nhất là phải bảo đảm được tính vô tư, khách quan, công bằng đối với mọi
công dân trước pháp luật. Trong lịch sử xã hội, pháp luật được định ra song
nhiều khi áp dụng không triệt để, có tầng lớp, có người còn đứng trên pháp
luật. Ngày xưa, các nhà pháp trị, như Quản Tử viết: “Vua tôi, trên dưới, sang
hèn đều phải theo pháp luật, như thế là thịnh trị”. Thực ra, hình phạt phong
kiến chỉ trừng trị thứ dân chứ không phải cho các bậc đại phu! Vì vậy mới có
tình trạng cùng một loại tội, quan thì xử theo lễ, dân thì xử theo luật!
Luật pháp là
cần thiết, là quan trọng cho mọi quốc gia. Khi không có luật pháp thì dễ đẩy xã
hội đến chỗ hỗn lọan, vô chính phủ. Khi luật được ban hành, NN phải tổ chức
triển khai phổ biến cho toàn dân học tập để mọi người dân hiểu và thực hiện.
Đây là nhiệm vụ không kém phần khó khăn nhằm đưa luật vào cuộc sống. HCM là tấm
gương mẫu mực chấp hành nghiêm pháp luật. Người không cho phép bất cứ ai dù các
nhân hay tổ chức NN đứng ngoài pháp luật. Trong quá trình thực thi pháp luật, HCM
yêu cầu phải đảm bảo tính khách quan, công băng bình đẳng. Pháp luật cho mọi
người cùng thực hiện, pháp luật không chỉ bênh vực quyền lợi của mọi công dân.
Vụ án “quan ăn đất” của các
nhà cầm quyền Đồ Sơn - Hải Phòng năm 2007. Sau vụ án tổng diện tích đất thu hồi
của 33 hộ cấp trái phép là 3.472 m2, tính theo giá thị trường thời
điểm đó(2003), thì thiệt hại của NN là 23 tỷ đồng. Qua đây cần rút ra bài học
lớn là về “xây dựng và hoàn thiện thể
chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và
quyết định của các cơ quan công quyền” mà Đại hội X đã nêu lên.
Pháp luật của ta là vì cuộc sống của ND.
HCM luôn chú trọng việc làm cho người dân hiểu luật pháp và chấp hành pháp
luật, công tác giáo dục người dân hiểu biết và tự giác chấp hành luật pháp là
cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến thành công của việc xây dựng nền
dân chủ đích thực, dân chủ theo kỷ cương, phép nước. Không thể có “tự do tuyệt
đối”, tự do phải được hiểu là sự nhận thức và hành động theo cái tất yếu. Có
như thế thì tự do dân chủ của người này, của cộng đồng dân cư này mới không xâm
phạm tự do, dân chủ của người khác, cộng đồng dân cư khác.
Quá trình xây dựng NN mới là quá
trình xây dựng và thực thi pháp luật trong toàn xã hội – đó là quan điểm cơ bản
của HCM. Suốt cả thời kỳ giữ trọng trách Chủ tịch nước, HCM chăm lo xây dựng
một nền pháp chế XHCN để bảo đảm quyền làm chủ thật sự của ND. Chính bản thân
HCM là tấm gương sáng về sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Người tự
giác khép mình vào kỷ luật, vào việc gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp
luật. Sống và làm việc theo pháp luật đã trở thành nền nếp, thành thói quen,
thành lối ứng xử tự nhiên của HCM.
IV. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH,
HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ
Làm thế
nào để xây dựng một NN CM trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, đấu
tranh khắc phục những căn bệnh cố hữu của các NN kiểu cũ đó là mối quan tâm
thường xuyên của Chủ tịch HCM ngay từ những ngày đấu có chính quyền.
Xây dựng NN
trong sạch, vững mạnh, hiệu quả là một cuộc đấu tranh gian khổ, muốn thắng lợi
phải huy động sức mạnh của ND và của cả hệ thống chính trị, sử dụng kết hợp các
biện pháp tư tưởng và tổ chức, giáo dục và hành chính, kinh tế và pháp luật…
Trong đó, HCM nhấn mạnh 2 nội dung quan trọng sau:
1. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài
- Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức.
+ HCM coi trọng vấn đề cán bộ, công
chức NN, đề cao vị trí và vai trò của họ. Người có quan niệm một cách nhất quán
về tiêu chuẩn cán bộ, viên chức NN ta phải là người vừa có đức, vừa có tài,
vừa hồng, vừa chuyên. Hai mặt đó phải luôn luôn đi đôi với nhau mà đức phải
là gốc.
+ Theo HCM, cán bộ, công chức NN là
yếu tố quyết định trong việc xác định NN đó có trong sạch hay không, có làm
tròn chức năng, nhiệm vụ của mình hay không. “Cán bộ là gốc của mọi công việc”,
“Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”
HCM yêu cầu rất cao đối với đội ngũ
cán bộ chính quyền các cấp. Đội ngũ ấy phải có phẩm chất và tài năng thật sự.
Đó là những con người phải thể hiện đầy đủ được các đức tính: cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, có tri thức và học thức...Đặc biệt HCM lưu ý: đã là cán
bộ công chức thì phải nắm chắc luật pháp, am hiểu pháp luật và vận dụng nhuần
nhuyễn chúng trong lĩnh vực hoạt động của mình, tránh làm sai, gây hậu quả xấu
cho dân, cho nước
Ngay sau CMT8 thành công, Người đã
đưa ra những tiêu chuẩn để lựa chọn và sử dụng cán bộ. Đi vào những mặt cụ thể,
HCM nêu lên yêu cầu sau:
- Tuyệt đối trung thành với cách mạng
Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối
với đội ngũ cán bộ công chức. Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường
bảo vệ NN. Lòng trung thành đó phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ trong mọi
lĩnh vực công tác, thể hiện trong thực tế công tác, phải là những người kiên
cường bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ NN.
Với cán bộ quản lý NN, điều quan tâm
thường xuyên của HCM vẫn là phẩm chất đạo đức và tinh thần phụng sự ND, phục vụ
Tổ quốc, phục vụ cách mạng bởi thiếu điều này thì dù giỏi đến mấy cũng không
dùng được.
Cán bộ NN là công bộc, đồng thời là người lãnh
đạo, người hướng dẫn của ND. Trong “Di chúc”, Người đã căn dặn cán bộ, đảng
viên phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
trung thành của ND.
- Hăng hái, thành thạo công việc,
giỏi chuyên môn nghiệp vụ
Chỉ với
lòng nhiệt tình thì chưa đủ, đội ngũ cán bộ, công chức phải chuyên sâu nghiệp
vụ, phải luôn luôn học tập không ngơi nghỉ, học mọi lúc, mọi nơi, học suốt đời.
Như Hồ Chủ
tịch nói: Chỉ với lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá
được cái xấu, cái cũ mà không xây dựng được cái tốt, cái mới; Là người lãnh đạo
thì phải có trí tuệ hơn người, thông minh, sáng
suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi ND, trọng dụng hiền tài.
- Cán bộ NN
phải biết quản lý NN . Từ người nô lệ trở thành người làm chủ, ta thiếu nhiều
nhân tài quản lý. Người biết rõ điều này do đó đã quyết định đẩy mạnh việc đào
tạo mở trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, ký sắc lệnh số 179 thành lập khoa Pháp
lý học tại trường đại học Việt Nam. Một mặt mạnh dạn sử dụng những viên chức,
quan lại đã được đào tạo về nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính dưới chế độ cũ;
mặt khác Người đăng báo tìm người tài đức, kêu gọi ai có tài hãy ra giúp nước
nhà. Công việc kiến thiết, ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết giáo dục…
rất cần nhiều nhân tài. “Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng
ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì
nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều”
- HCM là
tấm gương điển hình của tự học, Người học những kiến thức về NN trong suốt cả
cuộc đời.
- Phải có mối liên hệ mật thiết
với ND
HCM luôn chủ trương xây dựng mối liên
hệ chặt chẽ giữa đội ngũ cán bộ công chức với ND.
Trong bài “Lãnh đạo quần chúng tăng gia sản xuất” ngày 12/5/1955, Người phê
bình cán bộ cải cách ruộng đất ở một số nơi do trình độ yếu kém không biết dựa
vào dân nên gặp khó khăn trong công tác lãnh đạo quần chúng tăng gia sản xuất.
Người kết luận:
“Cán bộ máy
móc thì u tì
Tin vào quần
chúng thì việc gì cũng tươm”.
Xuất phát từ nhận thức chỉ có trí tuệ
và lòng dân mới có thể làm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ và sáng suốt, HCM
yêu cầu cán bộ phải “thân dân”, gần dân, không được lên mặt “quan cách mạng”
với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của dân. Đó là những người có ý
thức làm “công bộc”, làm “đầy tớ” cho dân.
- HCM đòi hỏi cán bộ, công chức phải
luôn luôn tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu,
hách dịch, cửa quyền.
- Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán,
dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn,”thắng không
kiêu, bại không nản”.
- Đó là những người có ý thức sẵn
sàng làm “công bộc”, làm “đày tớ”, “trâu
ngựa” cho dân, những người cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, làm
việc với tinh thần đầy sáng tạo.
- Để có đội ngũ cán bộ công chức NN
có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, HCM đòi hỏi cán bộ, công chức phải
luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, luôn luôn có chí tiến thủ,
luôn luôn học tập để nâng cao trình độ chuyên môn.
- Để xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức, HCM chú trọng xây dựng một quy chế tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, huấn
luyện và sử dụng công chức NN.
Đối với việc sử dụng cán bộ, công
chức, người đề ra quy chế thi làm cơ sở đánh giá, xếp đúng các ngạch, bậc trong
nền hành chính, xứng đáng với tài năng, đức độ và trình độ nghề nghiệp của từng
người. Nội dung thi tuyển công chức được Người đề cập rất khái quát, nhưng lại
rất cụ thể, bao gồm 6 môn: Lịch sử, địa lý, kinh tế, chính trị, pháp luật và
ngoại ngữ nhằm trang bị cho mỗi cán bộ, công chức một tri thức cơ bản, từ đó có
thể đi sâu vào lĩnh vực chuyên môn của mình.
Chính trị: Đại
cương hiến pháp và các tổ chức chính quyền của các nước Đế quốc và dân chủ như:
Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc...về địa vị của nước Việt Nam ở Đông Nam Á và thế
giới.
Kinh tế: So
sánh kinh tế TB với kinh tế XHCN, Hình thái kinh tế VN trước và sau tổng khởi
nghĩa, vấn đề ruộng đất, hợp tác xã...
Pháp luật: Môn
chính thể nước cộng hoà dân chủ VN, chế độ bầu cử, nghị viện...
Lịch sử: Thi
môn học về nhà Nguyễn, sự xâm lược của Pháp và việc thành lập chế độ bảo hộ của
Pháp; những phong trào xã hội, tư tưởng và học thuật, cuộc kháng hiến toàn
dân...
Ngoại ngữ: Cho
phép tình nguyện dịch một bài tiếng Anh ở trình độ trung học chuyên khoa, Một
bài Tiếng Trung ở trình độ cao học Trung Quốc và viết một bức thư bằng tiếng
Pháp
Quan điểm của HCM về chế độ thi tuyển
cán bộ, công chức thể hiện rõ nét tư tưởng xây dựng chế độ công chức chính quy,
hiện đại, dân chủ, công bằng và công khai. Đúng như tinh thần Đại hội X của
Đảng xem việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực là
yếu tố quyết định chất lượng của bộ máy NN, là một trong những nhiệm vụ cấp
bách của cải cách nền hành chính nước ta. Đó là cơ sở lý luận và thực tiến quý
giá để xây dựng, thực hiện quy chế công chức đáp ứng được công cuộc đổi mới
hiện nay. Thực tế có những quy định hiện
nay về chế độ tuyển công chức vẫn chưa đảm bảo đủ điều kiện, tiêu chuẩn của
CBCC như yêu cầu của Bác.
- Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành
động vì sự lớn mạnh, trong sạch của NN
Vì lợi ích của Tổ quốc, của ND, đội
ngũ cán bộ công chức phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, không thành
kiến hẹp hòi hay bao che, giấu diếm khuyết điểm.
Chức vụ, quyền hạn của cán bộ công
chức trong bộ máy NN là do dân uỷ thác, uỷ quyền để làm việc cho ích quốc, lợi
dân, không vì chủ nghĩa cá nhân.
2. Đề
phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của NN
Xây dựng NN của dân, do dân và vì dân
không bao giờ tách rời với việc làm cho NN luôn luôn trong sạch, vững mạnh.
Điều này luôn luôn thường trực trong tâm trí và hành động của HCM. Khi chính
quyền còn non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, HCM càng chú ý hơn
bao giờ hết đến việc đảm bảo cho sự trong sạch, vững mạnh của các cấp chính
quyền, bởi vì thường những lúc đó cách mạng đứng trước những thử thách hết sức
gay gắt.
Chỉ một tháng sau khi thành lập nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, HCM gửi “thư
cho Uỷ ban ND các kỳ, tỉnh, huyện và làng” nêu rõ 6 căn bệnh cần đề phòng:
trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.
HCM thường đề cập những tiêu cực sau
đây và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục:
- Đặc quyền, đặc lợi.
Xây dựng NN trong sạch, vững mạnh đòi
hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa
quyền, hách dịch với dân, lạm quyền đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức
quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.
- Tham ô, lãng phí, quan liêu.
Từ rất sớm HCM đã chỉ ra ba thứ giặc
nội xâm, những căn bệnh mà chúng ta phải kiên quyết chống nếu không chúng sẽ
dẫn đến nguy cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết được. Người nói: “Tham ô, lãng
phí và bệnh quan liêu dù là cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân
và phong kiến…Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”.
Người chỉ ra mối quan hệ giữa đánh
thù trong và diệt giặc ngoài: “Chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng
cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận”… “Nếu chiến sĩ và ND ta ra sức chống
ngoại xâm và quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của
mình”.
+ Lãng phí là một căn bệnh mà HCM lên
án gay gắt và chính bản thân người làm gương, tích cực thực hành chống lãng phí
trong cuộc sống hàng ngày và trong công việc, vì Người biết quý từng đồng xu,
bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động của bộ máy NN. Lãng phí ở đây được HCM
xác định là lãng phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của.
Vì sao nạn tham nhũng, hối lộ không giảm mà đang có chiều hướng gia tăng?
Vì sao có hiện tượng “nhờn” pháp luật? Có nguyên nhân do cơ chế quản lý kinh tế, do sơ hở về chính
sách, pháp luật, do thiếu nghiêm minh trong xét xử và thi hành án, do công tác
quản lý, giáo dục còn yếu kém,v.v..Cũng có nguyên nhân về nạn phe phái, ô dù
bao che cho nhau. Nguyên nhân quan trọng nữa không thể bỏ quan đó là nạn quan
liêu.
+ Liên quan đến bệnh tham ô, bệnh
lãng phí là bệnh quan liêu, một căn bệnh không những có ở cấp Trung ương, cấp
tỉnh, ở cấp huyện mà còn có ở cả cấp cơ sở.
Về tác hại nghiêm trọng của bệnh quan
liêu, Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh GCVS rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn
các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ “đánh mất một lần nữa chính quyền vừa giành
được” và đi vào con đường tiêu vong như đã từng xảy ra đối với mọi loại hình NN
đã từng xảy ra trước đây.
Lênin cũng viết: “Chúng ta bị khốn
khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành những tên quan
liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó (tức chủ
nghĩa quan liêu)”. Sự
tiên liệu của các bậc thầy vĩ đại đã không được những người kế tục sau này cảnh
giác, đề phòng, khắc phục. Sự sụp đổ của NN Xô viết có những nguyên nhân sâu xa
của nó, song có một nguyên nhân mà ai cũng thấy đó là bộ tham mưu của nó đã
quan liêu hóa, ngày càng xa rời ND nên đã rơi vào thoái hóa biến chất.
HCM phê bình những người và các cơ quan lãnh
đạo từ cấp trên đến cấp dưới không giám sát công việc thực tế, “không theo dõi
và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức
mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết
chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn”…Thành thử
có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ
đúng, có kỷ luật mà không nắm vững…Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng,
che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí
thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”
- “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”.
Những hành động này gây mất đoàn kết, gây rối
cho công tác. HCM kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình,
không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ.
Trong chính quyền còn chia rẽ, không
biết cách làm cho mọi người hoà thuận với nhau, còn có người “bênh vực lớp này,
chống lại lớp khác”. Ngoài cậy thế, kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan
Chính phủ là thần thánh rồi…Cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng”, làm
mất uy tín của Chính phủ.
Những hành động này gây mất đoàn kết,
gây rối cho công tác. HCM kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu
mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức,
nhưng không làm vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là việc công,
chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai. Trong chính quyền còn chia rẽ,
không biết cách làm cho mọi người hoà thuận với nhau, còn có người “bênh vực
lớp này, chống lại lớp khác”. Ngoài cậy thế, có người còn kiêu ngạo, “tưởng
mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi…Cử chỉ lúc nào cũng vác mặt
quan cách mạng”, làm mất uy tín của Chính phủ.
- Các giải
pháp phòng ngừa và khắc phục.
+ Sức mạnh, hiệu quả của NN một mặt
dựa vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương
mẫu, sự trong sạch của đạo đức của người cầm quyền. Vì vậy, Chủ tịch HCM đòi
hỏi “cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân”.
Hiện nay đất nước ta đang đi lên
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nền kinh tế của ta còn
ở tình trạng thấp kém, còn có khoảng cách lớn về trình độ giữa nước ta với thế
giới, trong khi đó một bộ phận cán bộ có chức có quyền lại đang rơi vào tham
nhũng thoái hoá biến chất…Các tệ nạn đó đang diễn ra khá trầm trọng, làm hoen ố
“Chính phủ Cụ Hồ”, đang làm suy yếu sức mạnh và hiệu lực của NN, phá hoại niềm
tin của ND vào sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy tập trung lực lượng để đấu tranh
chống tham nhũng, quan liêu, thoái hoá biến chất…đang là một yêu cầu cấp bách
để làm cho NN ta trong sạch, vững mạnh, có hiệu năng, hiệu quả.
+ Người nhắc nhở: “Chúng ta không sợ
sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không
vi phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa
chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích
của nước nhà mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình chính
trực” vào lòng”.
3. Tăng cường
tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với giáo dục đạo đức cách mạng
Đạo đức và pháp luật vốn có quan hệ
khăng khít với nhau, luôn kết hợp, bổ sung cho nhau trong điều chỉnh hoạt động
của con người. Pháp luật bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định một chuẩn
mực đạo đức nào đó và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực đạo đức càng đúng đắn
bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Đạo đức và pháp
luật đều là hai hình thái ý thức xã hội, thuộc hai lĩnh vực khác nhau nhưng lại
kết hợp và bổ sung cho nhau trong thực tế trị nước; và những nhà chính trị sáng
suốt thường không bao giờ tuyệt đối hóa địa vị độc tôn của một yếu tố riêng lẻ
nào.
HCM luôn luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng nâng cao
vai trò, sức mạnh của luật pháp
HCM đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn
giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp
trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng nghìn năm lịch
sử. Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ
tịch nước, HCM bao giờ cũng thể hiện một sự sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa
lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái, nhưng không bao che cho những
sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Kỷ cương, phép nước thời nào cũng cần và
đều phải được áp dụng cho bất cứ ai.
- Theo HCM, từ kinh tế tiểu nông quen
sống theo luật tục hơn là theo pháp luật, bỏ qua chế độ tư bản đi lên chủ nghĩa
xã hội, lại trải qua nhiều năm chiến tranh…muốn hình thành ngay một NN pháp
quyền thì chưa thể có ngay được. Trước hết phải nhấn mạnh vai trò của pháp
luật, khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục pháp luật trong ND…đồng thời phải đặc biệt coi trọng vấn đề đạo đức,
nâng cao vai trò giáo dục đạo đức.
Ở phương Đông thuyết “nhân trị” của
Khổng Tử lấy đạo nhân làm gốc, lấy hiếu đễ, lễ nhạc làm nội dung cơ bản cho sự
giáo hóa; chủ trương nhờ giáo dục con người tốt lên và ngày càng hoàn thiện thì
công việc “chính, hình” sẽ giảm nhẹ đi rất nhiều. Coi trọng đạo đức, nhưng Nho
gia cũng không loại bỏ hình luật mà coi đó là một biện pháp cần thiết để ngăn
ngừa, cần đặt ra nhưng tốt nhất là không dùng đến. Theo Mạnh Tử chỉ có đức nhân
không đủ cai trị, chỉ có một mình pháp luật tự nó cũng không thể thi hành được
Còn các nhà “pháp trị” (Tuân Tử, Hàn
Phi Tử, Lý Tư…) lại chủ trương rằng pháp luật mới là yếu tố quyết định chứ
không phải là đạo đức, đặc biệt là khi xã hội càng rối loạn, đạo đức càng suy
vi, pháp luật càng phải mạnh mẽ. Nhưng đi đôi với thưởng phạt nghiêm minh, các
nhà “pháp trị” cũng vẫn không bỏ qua tấm gương của các ông vua thánh, chúa
minh, những ông quan đức độ và kẻ sỹ hiền tài
Nói chung, các vị vua chúa hiền tài,
sáng suốt ở phương Đông, những người được coi là thành công trong sự nghiệp trị
nước, đều biết kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường pháp luật, vừa tôn Nho,
vừa trọng Pháp
Là một nhà chính trị lão luyện và
sáng suốt, trong suốt 24 năm ở cương vị đứng đầu NN, Bác Hồ luôn là một mẫu mực
của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng
cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật. Tư tưởng “đức trị”
với “pháp trị” được thể hiện ở “Quốc lệnh” do Người ban hành ngày 26/1/1946.
Trong Quốc lệnh này, Người đưa ra 10 điều khen thưởng (thể hiện cho đức trị),
và 10 điều phạt (thể hiện cho pháp trị).
“Luật pháp phải dựa vào đạo đức”,
nhưng “luật pháp phải bảo vệ đạo đức”. Đồng thời “đức trị” nhằm khuyên người ta
những việc nên làm. “pháp trị” bắt buộc người ta phải tránh những việc nên
tránh.
“Đức trị” là trị nước bằng tình, bằng thuyết
phục, bằng đạo lý; “pháp trị” là trị nước
bằng các đạo luật.
- Đạo đức và pháp luật trong tư tưởng
HCM không hề loại trừ nhau mà thống nhất bổ sung cho nhau. Người sử dụng “đức”
để cảm hóa, ngăn cản những thói hư tật xấu, hạn chế thấp nhất cái ác nảy sinh ở
mỗi con người. Song nếu một ai đó phạm tội thì Người nghiêm trị theo pháp luật.
Người thưởng, phạt rõ ràng, ai có công thì phải được khen thưởng, ai có tội thì
phải bị pháp luật trừng trị. Có như thế mới mở rộng được dân chủ, pháp luật mới
nghiêm, mọi người đều bình đẳng như nhau, mới ngăn chặn được cái ác cái xấu,
khuyến khích, nâng đỡ cái thiện cái tốt vốn có trong mỗi con người. Người từng
nói: “không dùng xử phạt là không đúng”, song “chút gì cũng dùng đến xử phạt
cũng không nên”, “thưởng phạt phải nghiêm minh thì ND mới yên ổn, kháng chiến
mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”.
+ Người đòi hỏi cao ở người cán bộ,
song cũng nhận thức sâu sắc rằng cán bộ cũng từ trong xã hội mà ra, cũng là con
người với những ham muốn thông thường về vật chất, tinh thần, tính vị kỷ…Giàu
lòng yêu thương, nhân từ nhưng Người cũng rất nghiêm khắc với những hành vi xâm
hại tính mệnh và tài sản của ND làm mất thanh danh, uy tín của Đảng và NN. Tác
phẩm Sửa đổi lối làm việc tiêu biểu cho sự quan tâm, chăm lo của HCM với nhiệm
vụ xây dựng, bồi dưỡng các cán bộ nhân viên NN, nhất là việc rèn luyện đạo đức
– nền tảng để cán bộ hoàn thành nhiệm vụ. Còn trên thực tế, HCM đã thực hiện
nghiêm khắc điều đó:
Ngày 27/11/1945, Chủ tịch HCM ký sắc
lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai
và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ.
Ngày 26/1/1946 Người ký Quốc lệnh
khép tội tham ô, trộm cắp của công nghiêm trọng vào tội tử hình. Người đòi hỏi
pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị
nào, làm nghề nghiệp gì. Lấy thí dụ điển hình như:
* Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa
I (11/1946) có đại biểu Quốc hội đã chất vấn Chính phủ về vụ Chu Bá Phượng, lúc
đó là Bộ trưởng Bộ Kinh tế trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến, là đại biểu
của Việt Nam Quốc dân Đảng, tham gia phái đoàn Chính phủ ta đi dự Hội nghị
Phôngtenơblô. Trong chuyến đi đó, ông ta mang theo vàng để buôn lậu, bị các nhà
chức trách Pháp bắt được; báo chí Pháp lợi dụng rêu rao, hòng làm mất ảnh hưởng
của đoàn đại biểu Chính phủ ta. Đây là vụ “xì căng đan” đầu tiên ở một nhân
viên cấp Bộ trưởng được công khai đưa ra trước Quốc hội ta.
HCM đã thay mặt Chính phủ trả lời
thẳng thắn: “Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính
phủ, từ HCM đến những người làm việc ở các ủy ban làng, đông lắm, phức tạp lắm.
Dù sao, Chính phủ đã hết sức làm gương, và nếu làm gương không xong, thì sẽ
dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đang trị và sẽ trị cho kỳ
hết!”.
Trong việc thi hành PL, cái khó nhất
là phải đảm bảo được tính vô tư, khách quan, công bằng, bình đẳng đối với mọi
công dân trước PL. Ngày xưa, các nhà pháp trị, như Quản Trị viết: “Vua tôi,
trên dưới sang hèn đều phải theo PL, như thế là thịnh trị”. Thực ra hình luật
phong kiến nặng nề chỉ để trừng phạt thứ dân chứ không phải cho các bậc đại phu!
Vì vậy, mới có tình trạng cùng một loại tội, quan thì xử theo lễ, dân thì xử
theo luật.
Còn chúng ta làm CM là để chống lại
tình trạng bất bình đẳng xã hội đó. Vì vậy, HCM đòi hỏi PL của ta phải thẳng
tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì
* Cuối năm 1945, khi giao việc cho
đồng chí Lê Giản sang phụ trách ngành Công an (còn gọi là Liêm phỏng), Người
nói đại ý: Trung ương quyết định chú sang làm Liêm phỏng. Bác lưu ý chú phải
“thiết diện vô tư”, bốn chữ thôi. Rồi Người giải thích: Thiết diện là mặt sắt,
nghĩa làm làm công an thì phải kiên quyết, cứng rắn; vô tư là không thiên vị,
nghĩa là phải hết sức công bằng, công minh. Chú làm cái nghề này mà không
“thiết diện vô tư” thì Bác sẽ “thiết diện vô tư” với chú!
* Người nói và gương mẫu thực hiện.
Trong kháng chiến chống Pháp, Đại tá Trần Dụ Châu, vốn cũng là một người cách
mạng, nhưng khi làm Cục trưởng Cục Quân nhu, đã lợi dụng chức vụ bớt xén phần
cơm áo vốn đã rất kham khổ, thiếu thốn của bộ đội ta để cùng đồng bọn sống phè
phỡn, lãng phí, trụy lạc…Vụ án được khởi tố, đưa ra tòa án quân sự, y bị lĩnh
án tử hình. Trần Dụ Châu và gia đình chống án lên Bác Hồ, xin được khoan hồng.
Vụ án đã gây cho Bác một nỗi đau buồn sâu sắc. Nhưng đối với loại sâu mọt đục
khoét ND, trị một người để cứu muôn người, dù rất đau lòng, Người đã ký lệnh
bác đơn chống án của Trần Dụ Châu. Vụ án đã được thi hành.
+ Qua đó có thể thấy, Người rất đề
cao phép nước, “nhân trị” đi đôi với “pháp trị”. Người hết lòng yêu thương dạy
bảo cán bộ. Nhưng kẻ nào lạm dụng tình thương của Người, làm hại đến tính mệnh
và tài sản của ND, làm mất thanh danh, uy tín của Đảng và NN, để đề cao phép
nước, thì dù họ có là ai đi nữa vẫn phải đem ra xét xử theo đúng pháp luật.
Tình trạng tiêu cực trong đời sống PL
ở nước ta hiện nay có một phần là do hệ thống PL của ta thiếu đồng bộ, một phần
nữa là do thi hành không nghiêm. Nhưng dù sau này hệ thống PL có hoàn chỉnh đến
đâu, việc thi hành cũng không thể tốt nếu tăng cường PL không đi liền với
thường xuyên giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ NN, trước hết là những người
giữ chức năng bảo vệ PL.
Qua đó có thể thấy, Chủ tịch HCM là
một nhà lập pháp đồng thời là một nhà hành pháp vĩ đại. TT của Người về sự kết
hợp thống nhất, biện chứng giữa giáo dực đạo đức và tăng cường PL cần được
chúng ta kế thừa và phát huy trên con đường xây dựng một NNPQ mạnh mẽ trong
sạch, vững mạnh, có hiệu quả.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ
NƯỚC, XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM NGANG TẦM NHIỆM VỤ CỦA GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ MỚI
Kể từ sau
ngày CMT8 thành công, chính quyền về tay ND đến nay, Đảng ta đã có kinh nhiệm
hơn nửa thế kỷ xây dựng và lãnh đạo NN. Từ CM DTDCND chuyển sang CM XHCN, tuy
nội dung, nhiệm vụ của NN có sự khác nhau, song về bản chất vẫn là NN của dân,
do dân, vì dân, được xây dựng
KẾT LUẬN
- Tư tưởng HCM
về dân chủ, về NN của dân, do dân, vì dân có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn,
sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ, NN kiểu mới ở
Việt Nam.
- Hiện nay,
toàn Đảng, toàn dân đang tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng NN pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
1. NN đảm bảo quyền làm chủ thật sự của ND
- Chú trọng và đảm bảo phát huy quyền
làm chủ thật sự của ND trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Cần thực hiện nguyên tắc dân chủ
trong các cộng đồng dân cư.
2. Kiện toàn bộ máy hành chính NN
- Phải chú trọng cải cách, xây dựng,
kiện toàn bộ máy hành chính NN, đảm bảo một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh.
- Phải chú trọng cải cách thủ tục
hành chính; đề cao trách nhiệm cá nhân trong việc giải quyết các khiếu kiện của
công dân theo đúng quy định của pháp luật.
- Tiêu chuẩn hóa đội nũ cán bộ, công
chức NN; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức vừa có đức, vừa có tài, tinh thông
chuyên môn, nghiệp vụ.
3. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với NN
- Công cuộc đổi mới chỉnh đốn Đảng
tất yếu gắn liên với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với NN.
- Vận dung tư tưởng HCM thể hiện ở
những nội dung như:
+ Lãnh đạo NN thể chế hóa đường lối,
chủ trương của Đảng…
+ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với NN.
Comments[ 0 ]
Post a Comment